Danh mục tài liệu

Chế độ dinh dưỡng với bệnh tim mạch

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 182.19 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bệnh tim mạch dùng để chỉ các bệnh lý mạch vành, tai biến mạch máu não. Tại Việt Nam, bên cạnh bệnh thấp tim và các bệnh van tim do thấp còn chiếm khá cao, các bệnh lý mạch vành và tai biến mạch máu não đang trở thành nhóm bệnh chính gây tử vong và nhập viện. Hiện nay, hầu như mọi người đều thừa nhận rằng chế độ dinh dưỡng là một nhân tố quan trọng trong phòng ngừa và xử trí một số bệnh tim mạch, trước hết là bệnh tăng huyết áp và bệnh mạch...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chế độ dinh dưỡng với bệnh tim mạch Chế độ dinh dưỡng với bệnh tim mạch Bệnh tim mạch dùng để chỉ các bệnh lý mạch vành, tai biến mạchmáu não. Tại Việt Nam, bên cạnh bệnh thấp tim và các bệnh van tim dothấp còn chiếm khá cao, các bệnh lý mạch vành và tai biến mạch máunão đang trở thành nhóm bệnh chính gây tử vong và nhập viện. Hiệnnay, hầu như mọi người đều thừa nhận rằng chế độ dinh dưỡng là mộtnhân tố quan trọng trong phòng ngừa và xử trí một số bệnh tim mạch,trước hết là bệnh tăng huyết áp và bệnh mạch vành. 1. Tăng huyết áp và bệnh mạch não Yếu tố nguy cơ chính của tai biến mạch máu não là tăng huyết áp. Cácnghiên cứu đều thấy mức huyết áp tăng lên song song với nguy cơ các lệnhtim do mạch vành và tai biến mạch não. Trong các nguyên nhân gây tăng huyết áp, trước hết người ta thườngkể đến lượng muối trong khẩu phần. Các thống kê dịch tễ cho thấy ở cácquần thể dân cư ăn ít muối thì bệnh tăng huyết áp không đáng kể và khôngthấy có băng huyết áp theo tuổi. Tuy nhiên, phản ứng của từng cá thể đối vớimuối ăn cũng không giống nhau. Hiện nay Tổ chức Y tế Thế giới khuyếncáo chế độ ăn muối 6g/ngày là giới hạn hợp lý để phòng tăng huyết áp. Bên cạnh muối ăn còn có một số muối khác cũng có vai trò đối vớităng huyết áp. Theo một số tác giả, tăng lượng canxi trong khẩu phần có ảnhhưởng làm giảm huyết áp. Một số công trình khác nhấn mạnh vai trò của tỷsố KJNA trong khẩu phần và cho rằng chế độ ăn giàu kali có lợi cho ngườităng huyết áp. Sữa và các chế phẩm từ sữa là nguồn canxi tốt, các thức ănnguồn gốc thực vật như lương thực, khoai củ, đậu đỗ và các loại rau quả cónhiều kali. Thêm vào đó một lượng cao các axit béo bão hòa trong khẩuphần cũng dẫn đến tăng huyết áp. Như vậy bên cạnh muối natri, nhiều thành phần khác trong chế độ ăncũng có ảnh hưởng đến tăng huyết áp, đó là chưa kể đến một số yếu tố khácđã được đề cập tới là béo phì và rượu. Một chế độ ăn hạn chế muối, giảm năng lượng và rượu có thể đủ đểlàm giám huyết áp ở phần lớn đối tượng có tăng huyết áp nhẹ. Ở nhữngngười tăng huyết áp nặng, chế độ ăn uống nói trên giúp giảm bớt sử dụngcác thuốc hạ áp. Bên cạnh đó chế độ ăn nên giàu canxi, kali, vitamin C, thaythế các chất béo của thịt bằng cá. Ở Việt Nam, vào những năm 60, tỷ lệ tăng huyết áp chỉ vào khoảng1% dân số, nhưng hiện nay theo số liệu của Viện tim mạch tỉ lệ này cao hơn10%, như vậy tăng huyết áp đã trở thành một vấn đề sức khỏe cộng đồngquan trọng. Các cuộc điều tra do viện dinh dưỡng tiến hành cho thấy ở cácvùng có nhiều người tăng huyết áp mức tiêu thụ muối ăn thường cao hơn cácnơi khác, do đó tránh thói quen ăn mặn là một nội dung giáo dục dinh dưỡngquan trọng để đề phòng tăng huyết áp ở nước ta. 2. Bệnh mạch vành Bệnh tim do mạch vành (Coronary Heart Disease CHD) là vấn đề sứckhỏe cộng đồng quan trọng ở các nước phát triển, chiếm hàng đầu trong cácnguyên nhân gáy tử vong. Nhờ các chương trình giáo dục sức khỏe tích cực,bệnh có khuynh hương giảm dần trong các thập kỷ gần đây ở nhiều nướcTây Âu, Úc, Mỹ, nhưng ở một số nước Đông Âu bệnh vẫn có xu hướngtăng. Tỷ lệ mắc bệnh khác nhau ở các nước cũng như trong cùng một nướcnhưng khác nhau về điều kiện kinh tế xã hội làm cho người ta chú ý đến cácnhân tố nguy cơ mắc bệnh là môi trường và dinh dưỡng. Theo sự hiểu biết hiện nay ba yếu tố nguy cơ đã được xác định, đó làhút thuốc lá, tăng huyết áp và hàm lượng cholesterol trong máu cao. Cácnguy cơ tăng dần theo tuổi ở nữ (trước khi mãn kinh) thấp hơn ở Nam. Cácnguy cơ do tăng huyết áp và mối liên quan giữa dinh dưỡng với tăng huyếtáp đã được trình bày ở phàn trên, dưới đây xin đề cập tới hai nhân tố còn lại. a) Hút thuốc lá Tất cả các Hội đồng chuyên viên đều xác nhận hút thuốc lá là yếu tốnguy cơ hàng đầu đối với bệnh mạch vành. Người ta thấy hút thuốc lá khôngnhững gây tốn thương màng trong các động mạch mà còn sinh ra chấtnicotin gây tăng nhịp tim và huyết áp, tăng nhu cầu oxy của các cơ tim. Cácoxyt cacbon do hút thuốc lá sinh ra làm giảm khả năng vận chuyển oxy cửamáu. Hơn thế nữa, hút thuốc lá còn là nguồn sản sinh ra các gốc tự do, tăngđộ kết dính của tiểu cầu và làm giảm các lipoprotein có tỷ trọng cao ( HDL:High Density Lipoprotein). Yếu tố dinh dưỡng được quan tâm đến khi người ta nhận thấy nhiều ởvùng Địa Trung Hải như: Ý, Hi Lạp là vùng nghiện thuốc lá nặng nhưng t ỷlệ mắc bệnh mạch vành không tăng. Nhiều tác giả cho rằng đó là do lượngrau và trái cây trong khẩu phần ở các nước này thường cao. b) Cholesterol máu Mối liên quan giữa bệnh mạch vành với lượng cholesterol toàn phầntrong máu đã được thừa nhận rộng rãi . Đó là một chỉ điểm tốt về nguy cơcủa bệnh mạch vành. Cholesterol là một chất sinh học có nhiều chức phậnquan trọng, một phần được tổng hợp trong cơ thể, một phần do thức ăn cungcấp. Lượng cholesterol trong khẩu phần có ảnh hưởng đến cholesterol toànphần trong huyết thanh, tuy ảnh hưởng này ít hơn ảnh hưởng của các axitbéo no. Do cholesterol trong chế độ ăn góp phần tạo nên nguy cơ bệnh mạchvành nên hầu hết các ủy ban chuyên viên quốc tế đều khuyên lượngcholesterol trong chế độ ăn trung bình nên dưới 300 mg/ngày/người. Cholesterol chỉ có trong các thức ăn nguồn gốc động vật, nhất là não(2500 mg%), bầu dục (5000 mg%), tim (2100 mg%), lòng đỏ trứng (2000mg%), do đó hạn chế các thức ăn này góp phần giảm lượng cholesterol trongkhẩu phần. Lòng đỏ trứng có nhiều cholesterol nhưng đồng thời có nhiềulexitin là một chất điều hòa chuyển hoá cholesterol trong cơ thể. Do đó ởNHỮNG NGƯỜI CÓ cholesterol máu cao không nhất thiết kiêng hẳn trứngmà chỉ nên ăn trứng mỗi tuần 1, 2 lần và nếu có điều kiện uống thêm sữa. Người ta thấy thành phần chính trong chế độ ăn có ảnh hưởng đếnhàm lượng cholesterol huyết thanh là các axit béo no. Nghiên c ứu nổi tiếngcủa Keys và ...