Danh mục tài liệu

ĐIÊU KHẮC DÂN GIAN

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 139.81 KB      Lượt xem: 33      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mỗi làng Việt Nam đều có một ngôi đình. Đình là nơi thờ Thần Thành Hoàng của làng. Thành Hoàng thường là những bậc anh hùng có công dựng nước, giúp nước, chống giặc ngoại xâm; hoặc một Thần Sông, Thần Núi mang tính huyền thoại như giúp dân trị thuỷ, trừ khử yêu quái, đem lại cuộc sống yên lành cho mọi nhà, mọi người. Đình vừa là nơi thờ cúng, vừa là nơi hội họp của dân làng. Nó là ngôi nhà công cộng của một tập thể cư dân nông nghiệp làng xã. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
ĐIÊU KHẮC DÂN GIAN ĐIÊU KHẮC DÂN GIAN nhóm tượng người với hổ ở đình Cự Trữ, Trực Ninh, Nam Định Mỗi làng Việt Nam đều có một ngôi đình. Đình là nơi thờ Thần Thành Hoàng của làng. Thành Hoàng thường là những bậc anh hùng có công dựng nước, giúp nước, chống giặc ngoại xâm; hoặc một Thần Sông, Thần Núi mang tính huyền thoại như giúp dân trị thuỷ, trừ khử yêu quái, đem lại cuộc sống yên lành cho mọi nhà, mọi người. Đình vừa là nơi thờ cúng, vừa là nơi hội họp của dân làng. Nó là ngôi nhà công cộng của một tập thể cư dân nông nghiệp làng xã. Mọi tập tục, văn hoá, nếp sống của làng đều được định ra ở đây, có tên gọi là “Hương ước”, một thứ luật lệ dưới luật, nhưng không kém phần nghiêm ngặt với các thành viên của làng. Kiến trúc đình theo kiểu thức “Vì Kèo” với những hàng cột lim to khoẻ, vững chãi phân bố các gian của ngôi đình (thường là ba gian). Mái đình lợp ngói có độ dốc vừa phải. Bốn góc mái thường có bốn đầu đao uốn cong mềm mại vút lên như cánh chim bay. Bờ nóc của đình thường được trang trí một dải dài hoa văn chạy suốt là hoa chanh, hoặc hoa thị. Hoặc đắp một đôi “rồng chầu nguyệt” (hay chầu mặt trời?). Tường bao quanh xây bằng gạch trần nung già “da vải”, hoặc trát vữa, quét vôi trắng. Nhìn gần, công trình có độ thấp với mái ngói hơi nặng, nhưng nhìn xa lại có vẻ bề thế, thanh thoát bởi độ cao của khối kiến trúc chỉ chiếm một không gian vừa phải, gần với tầm kích con người Việt Nam, nên nó không tạo khoảng cách xa lạ, hoặc uy hiếp chủ nhân của chính nó như những giáo đường phương Tây xa lạ. Trước ngôi đình, thường có giếng nước hoặc hồ nước, theo thuyết âm dương phong thuỷ hoà hợp. Hồ thường được thả sen, hay súng; tới mùa hoa hương thơm toả ra mát dịu. Nằm trong khuôn viên kiến trúc, còn có tam quan - cổng đình có mái lợp ngói: hoặc là bốn trụ đứng lộ thiên. Góp phần vào vẻ đẹp, còn có những cây cao cổ thụ như đa, muỗm toả bóng mát xuống công trình. Màu trắng của tường vôi màu đỏ của ngói và gạch trần, màu xanh của lá, mặt phẳng thoáng của nước hồ như tấm gương soi phản chiếu cảnh vật, như nhân đôi chiều cao của công trình... Tất cả tạo thành hoà sắc bức tranh làng quê êm đềm, đầy chất trữ tình: Bên đình ngả nón trông đình/ đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu (Ca dao). “Ngày nay dù ở nơi xa/nhưng khi về đến cây đa đầu làng/thì bao nhiêu giấc mơ màng/hiện lên với bóng cổng làng trong tre” (Bàng Bá Lân). Niên đại sớm nhất về ngôi đình làng mà chúng ta được biết là vào thế kỷ 16, thời Mạc. Đó là ngôi đình Lỗ Hạnh, thuộc huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang, còn ghi rõ năm làm đình “Sùng Khang thứ 10” (1576, Mạc Mậu Hợp). Trước đó, qua nhiều năm nghiên cứu di tích, các nhà lịch sử mỹ thuật của Viện Mỹ thuật và Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam cũng chưa phát hiện được ngôi đình nào thuộc thời Mạc, hoặc sớm hơn nó, ngoài một số đồ gốm cổ Bát Tràng - Như bình thờ, đèn thờ, lư hương có ghi các niên hiệu Diên Thành, Hưng Trị, Đoan Thái, Hồng Ninh. . .thời Mạc Mậu Hợp. Từ đây, các hoạ tiết trang trí trên chất liệu gỗ và gốm được xem là những đặc điểm cơ bản, điểm tựa của mỹ thuật Mạc, làm tư liệu để so sánh, đối chiếu đặng tìm ra những phong cách điêu khắc trang trí kiến trúc tương đồng trên gỗ ở một số công trình kiến trúc khác. Một loạt những bộ phận điêu khắc trang trí kiến trúc ngôi đình (chùa) đã được liệt kê tìm ra dấu vết thời Mạc - như đình Tây Đằng, chùa Bối Khê (Hà Tây), chùa Cói (Vĩnh Phúc), chùa Bà Tấm (Gia Lâm, Hà Nội, cuối thế kỷ 17)... là những dẫn chứng cụ thể. Đặc biệt là đồ án trang trí con rồng, con phượng và một số loại hình hoa văn khác nữa. Theo lịch sử còn ghi lại, thế kỷ 16 là thời kỳ mở đầu sự khủng hoảng và suy vong của chế độ phong kiến Việt Nam. Để giành quyền thống trị, các dòng họ phong kiến cầm quyền không ngớt tàn sát lẫn nhau. Đến thế kỷ 18 thì những cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp nổ ra, đỉnh cao là thắng lợi vang dội của phong trào nông dân Tây Sơn do người anh hùng áo Vải Nguyễn Huệ cầm đầu. Khi người nông dân được giải phóng, làm chủ vận mệnh của mình, thì nghệ thuật của họ cũng được giải phóng trong lao động sáng tạo. Cũng vẫn những con Rồng, con Phượng vốn được xem như những con vật thiêng đại diện cho quyền uy và sự kiêu sa của vua chúa, giờ đây dưới nhãn quan của người nghệ sĩ dân gian, nó đã được tái tạo ra khác hẳn. Nó không còn giữ vẻ trang nghiêm đến khô cứng, mà trở nên cầu kỳ, rối rắm. Với cái nhìn mới, con Rồng trở thành những con “Rồng ổ” - Rồng mẹ và Rồng con - quấn quít, chan hoà cùng nhau trong cuộc sống (xin xem những con Rồng ổ ở các đình như Thổ Tang, Thổ Hà, Chu Quyến, cuối thế kỷ 17)... Cũng như vậy những con Phượng vốn mang vẻ đẹp kiêu kỳ, tượng trưng cho sắc đẹp quyền quý của bà Hoàng, bỗng trở thành như một “mái gà” ấp ủ đàn con (xin xem “Phượng mẹ và đàn con”, tượng tròn, đình Chu Quyến, Sơn Tây, cuối thế kỷ 17). Cùng cách nhìn ấy, những con Lân, con Ly trong bộ “Tứ Linh”! cũng trở nên thân thuộc như mọi con vật trong đời sống tự nhiên của chúng; không còn vẻ trang nghiêm cách bức nữa: “...Bốn ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu có liên quan: