Danh mục

ĐỒ ÁN ÁP DỤNG CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN VÀ BẢO MẬT TRONG TMĐT CHO NHÀ MÁY XI MĂNG AN GIANG_ CHƯƠNG 3

Số trang: 23      Loại file: pdf      Dung lượng: 356.70 KB      Lượt xem: 28      Lượt tải: 0    
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

CHƯƠNG 3: GIỚI THIỆU NHÀ MÁY XI MĂNG AN GIANG 3.1. Quá trình hình thành và phát triển Nhà máy xi măng An Giang là một trong những nhà máy thuộc doanh nghiệp Nhà nước được thành lập sau ngày miền Nam giải phóng
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
ĐỒ ÁN ÁP DỤNG CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN VÀ BẢO MẬT TRONG TMĐT CHO NHÀ MÁY XI MĂNG AN GIANG_ CHƯƠNG 3ĐỒ ÁN ÁP DỤNG CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN VÀ BẢO MẬT TRONG TMĐT CHO NHÀ MÁY XI MĂNG AN GIANG CHƯƠNG 3: GIỚI THIỆU NHÀ MÁY XI MĂNG AN GIANG3.1. Quá trình hình thành và phát triển Nhà máy xi măng An Giang là một trong những nhà máy thuộc doanh nghiệpNhà nước được thành lập sau ngày miền Nam giải phóng, được khởi công xâydựng từ tháng 11 năm 1978 và đưa vào sử dụng năm 1979. Nhà máy xi măng AnGiang được đặt tại khu vực ấp Đông Thạnh, Xã Mỹ Thạnh, Thành Phố LongXuyên, Tỉnh An Giang, với diện tích mặt bằng chiếm 9 ha nằm cạnh quốc lộ 91,cách trung tâm thành phố Long Xuyên khoảng 5,5 km. Hàng năm nhà máy đã gópphần rất lớn trong nền kinh tế quốc dân, cung cấp xi măng cho các công tr ình dândụng và công nghiệp, xây dựng cơ bản trong tỉnh và các tỉnh Đồng Bằng Sông CửuLong. Sự ra đời của nhà máy xi măng là cần thiết để cung cấp nguyên vật liệu chocông trình xây dựng, khắc phục hậu quả chiến tranh gây ra, đồng thời phát triểnkinh tế theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Từ khi thành lập nhà máy xi măng An Giang hoạt động sản xuất theo chỉ tiêukế hoạch của tỉnh. Từ nguồn tích lũy qua nhiều năm đến tháng 4 năm 1995, nhàmáy có 4 máy nghiền ( loại công suất 2 tấn/giờ), ba dãy nhà kho chứa nguyên liệuvà thành phẩm, một kho chứa phế liệu và sân phơi. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là loạimáy móc cũ kỹ, hầu hết dây chuyền sản xuất thủ công là chính, chất lượng sảnphẩm không đồng đều, hiệu quả kinh tế không cao. Hằng năm, nhà máy nhận chỉtiêu sản xuất xi măng ở trên giao, nguyên liệu tự do và chỉ sản xuất trên dưới 5.000tấn xi măng loại mác thấp P 300 ( tương đương PC 20) tiêu thụ rất khó khăn. Sảnlượng tiêu thụ trong giai đoạn này chiếm 15% nhu cầu xây dựng cơ bản của tỉnhAn Giang. Năm 1986, nhà máy hoạt động khá vất vả, khó khăn lớn nhất trong giai đoạnnày là nhà máy nằm trong bối cảnh cả nước tiến tới xóa bao cấp, sản xuất theo cơchế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, sản xuất mang tính độc lập, tự chủ nênhoạt động của nhà máy rất bấp bênh. Năm 1995, nền công nghiệp xi măng của tỉnhAn Giang nằm trong tình trạng lạc hậu về công nghệ. Tháng 4 năm 1995, nhà máy xi măng được sáp nhập vào Công ty Xây Lắp AnGiang. Trước yêu cầu của sự công nghiệp hóa - hiện đại hóa cùng với sự phát triểncủa nền kinh tế thị trường, thay đổi cách nhìn và cung cách làm ăn mới, lãnh đạoCông ty Xây Lắp xin ý kiến tỉnh Ủy - thường trực Ủy Ban Nhân Dân tỉnh và đượcsự đồng ý, chỉ đạo cho nhà máy tiến hành lập dự án đầu tư xây dựng - lắp đặt dâychuyền nghiền hiện đại đầu tiên hoàn thành vào tháng 5 năm 1997 có công suất100.000 tấn/năm, nhập thiết bị Trung Quốc, tổng vốn đầu t ư 7.300 triệu đồng. Vớicông nghệ kỹ thuật cao, tự động hóa và định lượng hoàn toàn điều khiển bằng máyvi tính. Cùng với sự nhiệt tình năng nổ của tập thể cán bộ công nhân viên, nghiêncứu cải tiến kỹ thuật, áp dụng nhiều sáng kiến, thay đổi mẫu mã mới, tiết kiệmtrong xây dựng, giảm chi phí đầu tư, hạ giá thành sản phẩm, quảng cáo thươnghiệu,… Sau hơn 3 năm hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, nhà máyđã hoàn vốn đầu tư, đồng thời đã được Trung Tâm 3 cấp giấy chứng nhận phù hợptiêu chuẩn quốc gia vào cuối năm 1998. Nhà máy hoạt động hết công suất thiết kế nhưng cũng không đáp ứng đủ nhucầu tiêu thụ của xã hội, nên đầu năm 2000 lãnh đạo Công ty Xây Lắp đồng ý chonhà máy tiếp tục đầu tư thêm dây chuyền thứ hai (công suất 100.000 tấn/năm), vềthiết bị chỉ mua máy nghiền bi, máy phân li của Trung Quốc, một số thiết bị còn lạinhư gầu nâng, sàn quay, máy đóng bao vít tải, cân bằng điện tử,… nhà máy tự chếtạo và lắp đặt. Rút kinh nghiệm từ dây chuyền trước có cải tiến máy phân ly, silô ximăng, bố trí dây chuyền hợp lý, nên giảm chi phí đầu tư công trình gần 2.000 triệuđồng, hoàn thành đưa vào sử dụng trước thời hạn một tháng (ngày 15/ 11/ 2000). Phát huy hiệu quả sản xuất kinh doanh của hai dây chuyền, tháng 3 năm 2001được sự chỉ đạo của Công ty Xây Lắp, nhà máy tiếp tục đầu tư dây chuyền thứ 3 vàthứ tư với công nghệ thiết bị như hai dây chuyền nêu trên, cũng chỉ mua ốngnghiền và máy phân ly còn các thiết bị khác do các cán bộ công nhân viên nhà máytự chế tạo. Nhờ có kinh nghiệm trong chế tạo và lắp đặt nên tiến độ xây dựngnhanh hơn, chi phí đầu tư giảm chỉ còn 4.500 triệu đồng( giảm 2.800 triệu đồng sovới dây chuyền thứ nhất và giảm 500 triệu đồng so với dây chuyền thứ hai). Côngtrình đã đưa vào sử dụng tháng 2 và thánh 12 năm 2002. Nâng tổng công suất củanhà máy lên 400.000 tấn/năm. Từ tháng 7/2003 nhà máy có tung ra thị trường sản phảm xi măng chất lượngcao PCB 40, tháng 12/2003 nhà máy được Trung Tâm Chứng Nhận Phù Hợp TiêuChuẩn- QUACERT cấp dấu chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn TCVN 6260: 1997 sốSP 314.03.16 ngày 23/12/2003 cho sản phẩm xi măng Pooclăng hỗn hợp PCB 40. Đến nay, sau hơn 3 năm áp dụng hệ thống qu ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu có liên quan: