Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của tôn giáo học Mácxít từ cách tiếp cận lịch đại
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 103.52 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử xã hội, một hình thái ý thức xã hội, vì thế đương nhiên nó là sản phẩm của xã hội. Để nghiên cứu tôn giáo, xác định đối tượng và phương pháp nghiên cứu tôn giáo cần thiết phải bắt đầu từ cách tiếp cận lịch đại.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của tôn giáo học Mácxít từ cách tiếp cận lịch đại JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Education Science, 2013, Vol. 58, No. 4, pp. 110-116 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÔN GIÁO HỌC MÁCXÍT TỪ CÁCH TIẾP CẬN LỊCH ĐẠI Trần Đăng Sinh Khoa Triết học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Tôn giáo có lịch sử ra đời từ rất sớm gắn liền với các giai đoạn phát triển của lịch sử loài người. Mỗi giai đoạn phát triển thường có một kiểu tôn giáo đặc trưng phản ánh điều kiện kinh tế - xã hội của giai đoạn ấy. Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử xã hội, một hình thái ý thức xã hội, vì thế đương nhiên nó là sản phẩm của xã hội. Để nghiên cứu tôn giáo, xác định đối tượng và phương pháp nghiên cứu tôn giáo cần thiết phải bắt đầu từ cách tiếp cận lịch đại. Từ khóa: Tôn giáo, thời đại, tôn giáo học, đối tượng và phương pháp nghiên cứu của tôn giáo học. 1. Mở đầu Có nhiều cách tiếp cận đối tượng và phương pháp nghiên cứu tôn giáo. Tôn giáo học mácxít là một cách tiếp cận trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đó chính là cách tiếp cận lịch đại. Từ cách tiếp cận này, chúng ta có thể đưa ra một cách nhìn đầy đủ, chính xác, khách quan, khoa học về tôn giáo nói chung, và đặc biệt là đối tượng và phương pháp nghiên cứu của tôn giáo học mac xit. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Tôn giáo và thời đại Tôn giáo ra đời cách đây khoảng 10 vạn năm. Sự ra đời của tôn giáo gắn liền với sự ra đời của người Homosapien (người thông minh) thời nguyên thủy. Tôn giáo thời nguyên thủy là sự phản sự bất lực của con người trước sức mạnh của giới tự nhiên, sức mạnh ấy hàng ngày, hàng giờ thống trị lên cuộc sống của con người đang còn trong trạng thái mông muội và dã man. Tôn giáo thời nguyên thủy là cách giải thích mang tính thần bí, hư ảo của con người về giới tự nhiên, và sau đó là về xã hội. Tôn giáo thời nguyên thủy mang tính sơ khai, đa thần. Nó tồn tại với các hình thức phong phú như tô - tem giáo, bái vật giáo, vật linh giáo, ma thuật giáo, sa man giáo, tín ngưỡng phồn thực,... Chấm dứt tình trạng mông muội và dã man, loài người bước vào thời đại văn minh - thời đại với sự phát triển vượt bậc về lực lượng sản xuất, dẫn đến sự ra đời của giai cấp, của nhà nước, của khoa học,... Ngày nhận bài: 14-9-2012. Ngày chấp nhận đăng: 16-4-2013 Liên hệ: Trần Đăng Sinh, e-mail: trandangsinh@yahoo.com 110 Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của Tôn giáo học Mácxít... Thời cổ đại gắn liền với sự ra đời và tồn tại của các nền văn minh cổ đại vào khoảng thiên niên kỉ thứ I TCN như Trung Quốc, Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập, Hy Lạp-La Mã.Thời cổ đại cũng là thời đại bắt đầu hình thành và tồn tại của xã hội có giai cấp với chế độ chiếm hữu nô lệ, trong đó sự áp bức bóc lột của giai cấp chủ nô đối với nô lệ là vô cùng dã man, tàn bạo. Tôn giáo thời cổ đại có sự biến đổi, nó phản ánh sự biến đổi của xã hội. Tôn giáo đa thần không còn phù hợp với xã hội mà trong đó quyền lực tối cao thuộc về một người (vua, hoàng đế) đã nhường chỗ cho sự tồn tại của tôn giáo độc thần. Các tôn giáo độc thần ra đời gắn liền với sự ra đời của các quốc gia, dân tộc thời cổ đại. Trong đó, một số tôn giáo dân tộc đã vượt qua khỏi biên giới của một quốc gia, dân tộc và lan tỏa, phát triển thành các tôn giáo khu vực và tôn giáo thế giới sau này như: đạo Phật, đạo Ki-tô,...Thời kì này, nói như C.Mác: tôn giáo vừa là sự phản ánh hiện thực khốn cùng, đồng thời vừa là sự phản kháng chống lại hiện thực khốn cùng đó. Mặt khác giai cấp thống trị cũng đã dùng tôn giáo làm công cụ thống trị quần chúng nhân dân, bảo vệ địa vị và lợi ích của mình, duy trì, ổn định trật tự xã hội. Thời Trung cổ ở châu Âu tồn tại khoảng 1000 năm gắn liền với sự tồn tại của xã hội phong kiến. Nhà nước phong kiến ở châu Âu đã lấy ý thức tôn giáo làm hệ tư tưởng thống trị xã hội. Ki-tô giáo giữ vai trò độc tôn và có ảnh hưởng vô cùng sâu sắc tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, triết học, khoa học, văn hóa, nghệ thuật,... Có thể nói đây là thời đại hoàng kim của tôn giáo (Ki-tô giáo) ở phương Tây. Ở phương Đông chế độ phong kiến kéo dài mãi tới thế kỉ XVII, XVIII (Ấn Độ), và XIX đầu XX (Trung Quốc, Việt Nam). Tôn giáo được giai cấp địa chủ phong kiến đề cao, sử dụng làm công cụ tinh thần nhằm duy trì trật tự xã hội phong kiến. Thời Phục Hưng ở phương Tây (thế kỉ XV đến XVI) là thời kì khủng hoảng tan dã của chế độ phong kiến, thời đại quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản, thời tiền tư bản. Tôn giáo (Ki-tô giáo đã có dấu hiệu khủng hoảng trước sự phát triển của tư tưởng khoa học, tư tưởng tự do tư sản. Những phát minh khoa học có tính cách mạng trong nhận thức của Brunô, Côpécních, Galilê,... được ví như “cu ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của tôn giáo học Mácxít từ cách tiếp cận lịch đại JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Education Science, 2013, Vol. 58, No. 4, pp. 110-116 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÔN GIÁO HỌC MÁCXÍT TỪ CÁCH TIẾP CẬN LỊCH ĐẠI Trần Đăng Sinh Khoa Triết học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Tôn giáo có lịch sử ra đời từ rất sớm gắn liền với các giai đoạn phát triển của lịch sử loài người. Mỗi giai đoạn phát triển thường có một kiểu tôn giáo đặc trưng phản ánh điều kiện kinh tế - xã hội của giai đoạn ấy. Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử xã hội, một hình thái ý thức xã hội, vì thế đương nhiên nó là sản phẩm của xã hội. Để nghiên cứu tôn giáo, xác định đối tượng và phương pháp nghiên cứu tôn giáo cần thiết phải bắt đầu từ cách tiếp cận lịch đại. Từ khóa: Tôn giáo, thời đại, tôn giáo học, đối tượng và phương pháp nghiên cứu của tôn giáo học. 1. Mở đầu Có nhiều cách tiếp cận đối tượng và phương pháp nghiên cứu tôn giáo. Tôn giáo học mácxít là một cách tiếp cận trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đó chính là cách tiếp cận lịch đại. Từ cách tiếp cận này, chúng ta có thể đưa ra một cách nhìn đầy đủ, chính xác, khách quan, khoa học về tôn giáo nói chung, và đặc biệt là đối tượng và phương pháp nghiên cứu của tôn giáo học mac xit. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Tôn giáo và thời đại Tôn giáo ra đời cách đây khoảng 10 vạn năm. Sự ra đời của tôn giáo gắn liền với sự ra đời của người Homosapien (người thông minh) thời nguyên thủy. Tôn giáo thời nguyên thủy là sự phản sự bất lực của con người trước sức mạnh của giới tự nhiên, sức mạnh ấy hàng ngày, hàng giờ thống trị lên cuộc sống của con người đang còn trong trạng thái mông muội và dã man. Tôn giáo thời nguyên thủy là cách giải thích mang tính thần bí, hư ảo của con người về giới tự nhiên, và sau đó là về xã hội. Tôn giáo thời nguyên thủy mang tính sơ khai, đa thần. Nó tồn tại với các hình thức phong phú như tô - tem giáo, bái vật giáo, vật linh giáo, ma thuật giáo, sa man giáo, tín ngưỡng phồn thực,... Chấm dứt tình trạng mông muội và dã man, loài người bước vào thời đại văn minh - thời đại với sự phát triển vượt bậc về lực lượng sản xuất, dẫn đến sự ra đời của giai cấp, của nhà nước, của khoa học,... Ngày nhận bài: 14-9-2012. Ngày chấp nhận đăng: 16-4-2013 Liên hệ: Trần Đăng Sinh, e-mail: trandangsinh@yahoo.com 110 Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của Tôn giáo học Mácxít... Thời cổ đại gắn liền với sự ra đời và tồn tại của các nền văn minh cổ đại vào khoảng thiên niên kỉ thứ I TCN như Trung Quốc, Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập, Hy Lạp-La Mã.Thời cổ đại cũng là thời đại bắt đầu hình thành và tồn tại của xã hội có giai cấp với chế độ chiếm hữu nô lệ, trong đó sự áp bức bóc lột của giai cấp chủ nô đối với nô lệ là vô cùng dã man, tàn bạo. Tôn giáo thời cổ đại có sự biến đổi, nó phản ánh sự biến đổi của xã hội. Tôn giáo đa thần không còn phù hợp với xã hội mà trong đó quyền lực tối cao thuộc về một người (vua, hoàng đế) đã nhường chỗ cho sự tồn tại của tôn giáo độc thần. Các tôn giáo độc thần ra đời gắn liền với sự ra đời của các quốc gia, dân tộc thời cổ đại. Trong đó, một số tôn giáo dân tộc đã vượt qua khỏi biên giới của một quốc gia, dân tộc và lan tỏa, phát triển thành các tôn giáo khu vực và tôn giáo thế giới sau này như: đạo Phật, đạo Ki-tô,...Thời kì này, nói như C.Mác: tôn giáo vừa là sự phản ánh hiện thực khốn cùng, đồng thời vừa là sự phản kháng chống lại hiện thực khốn cùng đó. Mặt khác giai cấp thống trị cũng đã dùng tôn giáo làm công cụ thống trị quần chúng nhân dân, bảo vệ địa vị và lợi ích của mình, duy trì, ổn định trật tự xã hội. Thời Trung cổ ở châu Âu tồn tại khoảng 1000 năm gắn liền với sự tồn tại của xã hội phong kiến. Nhà nước phong kiến ở châu Âu đã lấy ý thức tôn giáo làm hệ tư tưởng thống trị xã hội. Ki-tô giáo giữ vai trò độc tôn và có ảnh hưởng vô cùng sâu sắc tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, triết học, khoa học, văn hóa, nghệ thuật,... Có thể nói đây là thời đại hoàng kim của tôn giáo (Ki-tô giáo) ở phương Tây. Ở phương Đông chế độ phong kiến kéo dài mãi tới thế kỉ XVII, XVIII (Ấn Độ), và XIX đầu XX (Trung Quốc, Việt Nam). Tôn giáo được giai cấp địa chủ phong kiến đề cao, sử dụng làm công cụ tinh thần nhằm duy trì trật tự xã hội phong kiến. Thời Phục Hưng ở phương Tây (thế kỉ XV đến XVI) là thời kì khủng hoảng tan dã của chế độ phong kiến, thời đại quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản, thời tiền tư bản. Tôn giáo (Ki-tô giáo đã có dấu hiệu khủng hoảng trước sự phát triển của tư tưởng khoa học, tư tưởng tự do tư sản. Những phát minh khoa học có tính cách mạng trong nhận thức của Brunô, Côpécních, Galilê,... được ví như “cu ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tôn giáo học Đối tượng tôn giáo học Nghiên cứu tôn giáo Phương pháp nghiên cứu tôn giáo Education scienceTài liệu có liên quan:
-
Giáo trình Tôn giáo học (In lần thứ sáu): Phần 2
170 trang 435 1 0 -
Nghiên cứu lý luận tôn giáo của Viện nghiên cứu tôn giáo trong 30 năm qua (1991-2021)
16 trang 319 0 0 -
15 trang 269 0 0
-
Điểm tương đồng về tư tưởng giữa C. Mác và học thuyết Phật giáo
7 trang 228 0 0 -
Bước đầu tìm hiểu hoạt động giáo dục và đào tạo của Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật họ (1931-1945)
23 trang 197 0 0 -
Tư tưởng phân tâm học Freud về nguồn gốc của tôn giáo
20 trang 152 0 0 -
Luật Pháp nhân tôn giáo của Nhật Bản và giá trị tham khảo đối với Việt Nam
15 trang 150 0 0 -
Giáo trình Dân tộc học, tôn giáo học: Phần 1
47 trang 134 0 0 -
16 trang 133 0 0
-
Hoạt động y tế của tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam qua mô hình phòng thuốc Nam phước thiện
20 trang 131 0 0