
Dùng sừng trâu thay sừng tê giác trong điều trị
Số trang: 4
Loại file: doc
Dung lượng: 47.50 KB
Lượt xem: 2
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong Đông y, sừng tê giác là một dược phẩm thông dụng và thiếtyếu trong điều trị nhiều loại bệnh cấp tính và nguy kịch.Tuy nhiên, hiện tê giác đang đứng trên bờ vực tuyệt chủngnên hầu như không thể có vị thuốc này. Trong nhiều bàithuốc, có thể dùng sừng trâu thay thế.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dùng sừng trâu thay sừng tê giác trong điều trịDùngsừngtrâuthaysừngtêgiáctrongđiềutrịTrongĐôngy,sừngtêgiáclàmộtdượcphẩmthôngdụngvàthiết yếutrongđiềutrịnhiềuloạibệnhcấptínhvànguykịch. Tuynhiên,hiệntêgiácđangđứngtrênbờvựctuyệtchủng nênhầunhưkhôngthểcóvịthuốcnày.Trongnhiềubài thuốc,cóthểdùngsừngtrâuthaythế.Trước đây, trên thị trường, sừng tê giác được chia thành 2 loại: sừngtê giác châu Á, thường gọi là “Xiêm La giác” và sừng tê giác cónguồn gốc châu Phi, thường gọi là “Quảng giác”. Theo sách “Nhữngcây thuốc và vị thuốc Việt Nam”, xưa kia, nước ta có nhiều tê giác,nhưng gần đây hầu như không thấy.Về tính năng, sừng tê giác là vị thuốc có tác dụng thanh nhiệt, giảiđộc, lương huyết và chỉ huyết mạnh, thường dùng chữa các bệnh ônnhiệt sốt cao, hôn mê nói nhảm, co giật và các chứng xuất huyết dohuyết nhiệt. Trên lâm sàng, sừng tê giác có thể sử dụng phối hợpvới nhiều vị thuốc khác, là thành phần không thể thiếu trong hàngloạt danh phương cổ như “Tê giác địa hoàng thang”, “Thanh doanhthang”, “Thần tê đan”, “An cung ngưu hoàng hoàn”, “Tử tuyết đan”,“Chí bảo đan”...Hiện nay, tê giác là loài động vật quý hiếm đang có nguy cơ tuyệtchủng, đã được đưa vào sách đỏ và cấm săn bắt. Việc sử dụngsừng tê giác làm thuốc vì thế cũng đã trở thành quá khứ. Có thểdùng sừng trâu thay thế.Sừng trâu (thủy ngưu giác) là dược liệu dễ kiếm, hầu như có sẵn ởkhắp các vùng nông thôn. Nó đã được sử dụng làm thuốc từ hàngnghìn năm nay. Sách “Danh y biệt lục” viết: Sừng trâu có thể dùngchữa chứng đau đầu do thời khí nóng lạnh thất thường. Còn theosách “Đại Minh bản thảo”, sừng trâu sắc lấy nước uống có thể trịchứng phong do nhiệt độc và sốt cao (trị nhiệt độc phong cập trángnhiệt).Y học hiện đại cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về tác dụngchữa bệnh của sừng trâu. Theo kết quả nghiên cứu tiến hành tạihàng loạt cơ sở ở Thượng Hải, Bắc Kinh và một số thành phố kháccủa Trung Quốc, trong sừng tê giác và sừng trâu đều chứa 17 loạiacid amin. Kết quả phân tích bán vi lượng trên máy quang phổ chothấy, thành phần các chất hữu cơ và vô cơ trong sừng tê giácvà sừng trâu cơ bản tương đồng.Qua kết quả nghiên cứu lâm sàng tiến hành trên 3.270 bệnh nhân tại50 đơn vị nghiên cứu ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân và QuảngĐông, các nhà khoa học khẳng định việc sử dụng sừng trâu và sừngtê giác cho kết quả điều trị cơ bản như nhau đối với 30 loại bệnh:viêm não B, trẻ nhỏ sốt nóng trong mùa hè, ban xuất huyết do giảmtiểu cầu, thần kinh phân liệt... Như vậy, có thể sử dụng sừng trâuthay thế cho sừng tê giác.Theo kết quả ứng dụng lâm sàng, sừng trâu hầu như không gây cáctác dụng phụ, chỉ một số ít trường hợp xuất hiện lợm giọng, buồnnôn, trướng bụng, đau bụng và một số biểu hiện khác về đường tiêuhóa.Theo sách “Hiện đại thực dụng Trung Dược học” do Quách LanTrung chủ biên, sừng trâu có những tác dụng dược lý sau:- Làm mạnh tim (tăng cường sức co bóp của cơ tim), hạ huyết áp vàlàm giảm nhịp tim.- Giảm số lượng bạch cầu, tăng lượng tiểu, cầu rút ngắn thời gianđông máu, giảm tính thông thấu của mao mạch.- Ức chế mạnh đối với trực khuẩn cô-li (colibacillus), liên cầu khuẩntan máu gây viêm não beta (Beta hemolytic streptococcus), bảo vệcơ thể và chống viêm rõ ràng.- Giảm cường độ co giật và tỷ lệ tử vong ở động vật thí nghiệm đãđược tạo cơn co giật.- Giảm tổng lượng cholesterol trong huyết thanh, đồng thời làm tănglượng cholesterol tốt.Trong các sách về Đông dược hiện đại, sừng trâu được xếp vào loạithuốc thanh nhiệt lương huyết, cùng với sinh địa hoàng, huyền sâm,mẫu đơn bì, tử thảo... Theo Đông y, sừng trâu vị đắng, tính hàn, cótác dụng thanh nhiệt, giải độc, lương huyết; dùng chữa ôn bệnh sốtcao, hôn mê nói nhảm, kinh phong điên cuồng (thường phối hợp vớisinh địa, huyền sâm, kim ngân hoa, liên kiều), chữa các chứng xuấthuyết như thổ huyết, nục huyết (đổ máu cam), ban xuất huyết dohuyết nhiệt (thường phối hợp với đan bì, xích thược, sinh địa).Sừng trâu cứng, nhưng sau khi hấp khoảng 1 giờ sẽ mềm ra và cóthể dễ dàng thái thành lát nhỏ (thuốc phiến); có thể chế thành dạngviên, xi-rô thuốc... Để dử dụng sừng trâu dạng thuốc phiến thay thếtê giác trong các phương thuốc cổ như “An cung ngưu hoàng hoàn”,“Tử tuyết đan”..., cần dùng liều lượng lớn gấp 10 lần sừng tê giác.Khi sử dụng trong thuốc thang, cần sắc sừng trâu trước khoảng 3giờ, sau đó mới cho các vị thuốc còn lại vào sắc tiếp. Liều dùng: 15-30 g sắc nước, tán bột hoặc mài lấy nước uống. Người tỳ vị hư hàncần thận trọng khi sử dụng.Một số ứng dụng cụ thể:- Chữa các chứng xuất huyết nghiêm trọng: Thời còn làm việc ởnông thôn, bác sĩ Vương Thu Đào, người Giang Tây, đã cho bệnhnhân mài sừng trâu uống để chữa trị các chứng sốt cao hôn mê do“nhiệt nhập doanh huyết” và các chứng ho ra máu, đổ máu mũi, đạitiện ra máu, băng lậu... đạt kết quả rất tốt. Đặc biệt có trường hợpmột nam bệnh nhân 60 tuổi bị lao phổi, liên tục nhiều ngày ho ra rấtnhiều máu, đã sử dụng đủ các biện pháp Tây và Đông y đều khôngkết quả, chỉ còn chờ chết. Bác sĩ Đào bảo người nhà dùng một cáibát nhám, mài sừng trâu với chút nước cho uống nhiều lần trongngày. Suốt 2 ngày liền, sừng trâu đã mòn khoảng 2 đốt ngón tay, hễcó ai đến thăm lại bảo mài sừng trâu cho bệnh nhân uống. Bệnhnhân uống vào cảm thấy ngực mát mẻ dễ chịu lạ thường, nên cứ đòingười nhà cho uống mãi. Máu ngừng chảy dần và cuối cùng bệnhnhân hồi phục lại. Sau khi hết ho ra máu, bệnh nhân cảm thấy nướcsừng trâu tanh không thể chịu nổi; mới ngừng cho uống (“Gia đìnhTrung y dược” 1/1998).- Chữa viêm gan virus: Dùng bột sừng trâu 50 g, sài hồ, phục linh,hoàng kỳ, đan sâm, cam thảo mỗi thứ 15 g; tán bột, làm thành viên0,5 g. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 10 viên, liệu trình 30 ngày. Thửnghiệm với 98 ca cho kết quả: 50 ca khỏi bệnh trong thời gian ngắn,21 ca hiệu quả rõ ràng, 13 ca có tác dụng nhất định, 14 ca vô hiệu.(Liêu Ninh Trung y tạ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dùng sừng trâu thay sừng tê giác trong điều trịDùngsừngtrâuthaysừngtêgiáctrongđiềutrịTrongĐôngy,sừngtêgiáclàmộtdượcphẩmthôngdụngvàthiết yếutrongđiềutrịnhiềuloạibệnhcấptínhvànguykịch. Tuynhiên,hiệntêgiácđangđứngtrênbờvựctuyệtchủng nênhầunhưkhôngthểcóvịthuốcnày.Trongnhiềubài thuốc,cóthểdùngsừngtrâuthaythế.Trước đây, trên thị trường, sừng tê giác được chia thành 2 loại: sừngtê giác châu Á, thường gọi là “Xiêm La giác” và sừng tê giác cónguồn gốc châu Phi, thường gọi là “Quảng giác”. Theo sách “Nhữngcây thuốc và vị thuốc Việt Nam”, xưa kia, nước ta có nhiều tê giác,nhưng gần đây hầu như không thấy.Về tính năng, sừng tê giác là vị thuốc có tác dụng thanh nhiệt, giảiđộc, lương huyết và chỉ huyết mạnh, thường dùng chữa các bệnh ônnhiệt sốt cao, hôn mê nói nhảm, co giật và các chứng xuất huyết dohuyết nhiệt. Trên lâm sàng, sừng tê giác có thể sử dụng phối hợpvới nhiều vị thuốc khác, là thành phần không thể thiếu trong hàngloạt danh phương cổ như “Tê giác địa hoàng thang”, “Thanh doanhthang”, “Thần tê đan”, “An cung ngưu hoàng hoàn”, “Tử tuyết đan”,“Chí bảo đan”...Hiện nay, tê giác là loài động vật quý hiếm đang có nguy cơ tuyệtchủng, đã được đưa vào sách đỏ và cấm săn bắt. Việc sử dụngsừng tê giác làm thuốc vì thế cũng đã trở thành quá khứ. Có thểdùng sừng trâu thay thế.Sừng trâu (thủy ngưu giác) là dược liệu dễ kiếm, hầu như có sẵn ởkhắp các vùng nông thôn. Nó đã được sử dụng làm thuốc từ hàngnghìn năm nay. Sách “Danh y biệt lục” viết: Sừng trâu có thể dùngchữa chứng đau đầu do thời khí nóng lạnh thất thường. Còn theosách “Đại Minh bản thảo”, sừng trâu sắc lấy nước uống có thể trịchứng phong do nhiệt độc và sốt cao (trị nhiệt độc phong cập trángnhiệt).Y học hiện đại cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về tác dụngchữa bệnh của sừng trâu. Theo kết quả nghiên cứu tiến hành tạihàng loạt cơ sở ở Thượng Hải, Bắc Kinh và một số thành phố kháccủa Trung Quốc, trong sừng tê giác và sừng trâu đều chứa 17 loạiacid amin. Kết quả phân tích bán vi lượng trên máy quang phổ chothấy, thành phần các chất hữu cơ và vô cơ trong sừng tê giácvà sừng trâu cơ bản tương đồng.Qua kết quả nghiên cứu lâm sàng tiến hành trên 3.270 bệnh nhân tại50 đơn vị nghiên cứu ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân và QuảngĐông, các nhà khoa học khẳng định việc sử dụng sừng trâu và sừngtê giác cho kết quả điều trị cơ bản như nhau đối với 30 loại bệnh:viêm não B, trẻ nhỏ sốt nóng trong mùa hè, ban xuất huyết do giảmtiểu cầu, thần kinh phân liệt... Như vậy, có thể sử dụng sừng trâuthay thế cho sừng tê giác.Theo kết quả ứng dụng lâm sàng, sừng trâu hầu như không gây cáctác dụng phụ, chỉ một số ít trường hợp xuất hiện lợm giọng, buồnnôn, trướng bụng, đau bụng và một số biểu hiện khác về đường tiêuhóa.Theo sách “Hiện đại thực dụng Trung Dược học” do Quách LanTrung chủ biên, sừng trâu có những tác dụng dược lý sau:- Làm mạnh tim (tăng cường sức co bóp của cơ tim), hạ huyết áp vàlàm giảm nhịp tim.- Giảm số lượng bạch cầu, tăng lượng tiểu, cầu rút ngắn thời gianđông máu, giảm tính thông thấu của mao mạch.- Ức chế mạnh đối với trực khuẩn cô-li (colibacillus), liên cầu khuẩntan máu gây viêm não beta (Beta hemolytic streptococcus), bảo vệcơ thể và chống viêm rõ ràng.- Giảm cường độ co giật và tỷ lệ tử vong ở động vật thí nghiệm đãđược tạo cơn co giật.- Giảm tổng lượng cholesterol trong huyết thanh, đồng thời làm tănglượng cholesterol tốt.Trong các sách về Đông dược hiện đại, sừng trâu được xếp vào loạithuốc thanh nhiệt lương huyết, cùng với sinh địa hoàng, huyền sâm,mẫu đơn bì, tử thảo... Theo Đông y, sừng trâu vị đắng, tính hàn, cótác dụng thanh nhiệt, giải độc, lương huyết; dùng chữa ôn bệnh sốtcao, hôn mê nói nhảm, kinh phong điên cuồng (thường phối hợp vớisinh địa, huyền sâm, kim ngân hoa, liên kiều), chữa các chứng xuấthuyết như thổ huyết, nục huyết (đổ máu cam), ban xuất huyết dohuyết nhiệt (thường phối hợp với đan bì, xích thược, sinh địa).Sừng trâu cứng, nhưng sau khi hấp khoảng 1 giờ sẽ mềm ra và cóthể dễ dàng thái thành lát nhỏ (thuốc phiến); có thể chế thành dạngviên, xi-rô thuốc... Để dử dụng sừng trâu dạng thuốc phiến thay thếtê giác trong các phương thuốc cổ như “An cung ngưu hoàng hoàn”,“Tử tuyết đan”..., cần dùng liều lượng lớn gấp 10 lần sừng tê giác.Khi sử dụng trong thuốc thang, cần sắc sừng trâu trước khoảng 3giờ, sau đó mới cho các vị thuốc còn lại vào sắc tiếp. Liều dùng: 15-30 g sắc nước, tán bột hoặc mài lấy nước uống. Người tỳ vị hư hàncần thận trọng khi sử dụng.Một số ứng dụng cụ thể:- Chữa các chứng xuất huyết nghiêm trọng: Thời còn làm việc ởnông thôn, bác sĩ Vương Thu Đào, người Giang Tây, đã cho bệnhnhân mài sừng trâu uống để chữa trị các chứng sốt cao hôn mê do“nhiệt nhập doanh huyết” và các chứng ho ra máu, đổ máu mũi, đạitiện ra máu, băng lậu... đạt kết quả rất tốt. Đặc biệt có trường hợpmột nam bệnh nhân 60 tuổi bị lao phổi, liên tục nhiều ngày ho ra rấtnhiều máu, đã sử dụng đủ các biện pháp Tây và Đông y đều khôngkết quả, chỉ còn chờ chết. Bác sĩ Đào bảo người nhà dùng một cáibát nhám, mài sừng trâu với chút nước cho uống nhiều lần trongngày. Suốt 2 ngày liền, sừng trâu đã mòn khoảng 2 đốt ngón tay, hễcó ai đến thăm lại bảo mài sừng trâu cho bệnh nhân uống. Bệnhnhân uống vào cảm thấy ngực mát mẻ dễ chịu lạ thường, nên cứ đòingười nhà cho uống mãi. Máu ngừng chảy dần và cuối cùng bệnhnhân hồi phục lại. Sau khi hết ho ra máu, bệnh nhân cảm thấy nướcsừng trâu tanh không thể chịu nổi; mới ngừng cho uống (“Gia đìnhTrung y dược” 1/1998).- Chữa viêm gan virus: Dùng bột sừng trâu 50 g, sài hồ, phục linh,hoàng kỳ, đan sâm, cam thảo mỗi thứ 15 g; tán bột, làm thành viên0,5 g. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 10 viên, liệu trình 30 ngày. Thửnghiệm với 98 ca cho kết quả: 50 ca khỏi bệnh trong thời gian ngắn,21 ca hiệu quả rõ ràng, 13 ca có tác dụng nhất định, 14 ca vô hiệu.(Liêu Ninh Trung y tạ ...
Tài liệu có liên quan:
-
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 240 0 0 -
Một số dấu hiệu bất thường khi dùng thuốc
5 trang 189 0 0 -
Một số lưu ý cho bệnh nhân Đái tháo đường
3 trang 129 0 0 -
Ưu điểm và nhược điểm thuốc đái tháo đường
5 trang 120 0 0 -
Sai lầm trong ăn uống đang phổ biến ở người Việt
5 trang 84 0 0 -
9 trang 83 0 0
-
Kiến thức y học - Sức khỏe quý hơn vàng: Phần 1
177 trang 55 0 0 -
Giáo trình sức khỏe môi trường_Bài 1
26 trang 51 0 0 -
13 trang 50 0 0
-
Những nguyên lý cơ bản của An toàn Sinh học
15 trang 42 0 0 -
4 trang 42 0 0
-
Những điều có thể chưa biết về khí hư
5 trang 41 0 0 -
5 trang 40 0 0
-
Giáo trình Sức khỏe nghề nghiệp_Phần 1
21 trang 39 0 0 -
3 trang 39 0 0
-
21 trang 38 0 0
-
Xoa bóp bấm huyệt phòng trị nhịp tim nhanh
4 trang 37 0 0 -
Phân biệt bệnh viêm não với viêm màng não
7 trang 37 0 0 -
10 trang 36 0 0
-
Người viêm khớp dạng thấp nên sinh hoạt thế nào?
3 trang 35 0 0