Danh mục tài liệu

Hiện trạng và đề xuất cải tiến kỹ thuật, quản lý ở đối tượng Ngao (Meretrix Spp) nuôi thương phẩm tại Hải Phòng

Số trang: 15      Loại file: pdf      Dung lượng: 1.34 MB      Lượt xem: 23      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nuôi trồng thủy sản (NTTS) là một nghề truyền thống của nhân dân Hải Phòng đã và đang phát triển mạnh ở cả ba vùng nước ngọt, lợ, mặn. Định hướng của ngành thủy sản Hải Phòng đến năm 2020 là xác định nuôi trồng thủy sản là lĩnh vực có nhiều lợi thế phát triển, trong đó ưu tiên phát triển nuôi hải sản nước mặn khu vực ven đảo Cát Bà, Long Châu, Bạch Long Vỹ... Quan tâm phát triển nuôi động vật thân mềm ven biển (ngao, vẹm, tu hài...), với diện tích 1.500 - 2.000ha, đặc biệt triển nghề nuôi ngao. Hiện nay nghề nuôi ngao tại Hải Phòng vẫn mang tính tự phát, có nhiều rủi ro, không ít hộ nuôi ngao đã bị thất thu do xuất hiện bệnh, làm chết hàng loạt ngao nuôi. Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi thực hiện nghiên cứu “Hiện trạng và đề xuất cải tiến kỹ thuật, quản lý ở đối tượng ngao nuôi thương phẩm (Meretrix spp) nuôi tại Hải Phòng”. Đề tài sử dung bộ số liệu điều tra qua thống kê 5 năm (2005 - 2010) và điều tra ngẫu nhiên thông qua bộ câu hỏi kết hợp với thu mẫu ngao nuôi, đánh giá trực tiếp tại hiện trường.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hiện trạng và đề xuất cải tiến kỹ thuật, quản lý ở đối tượng Ngao (Meretrix Spp) nuôi thương phẩm tại Hải Phòng Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2013 KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC HIỆN TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT CẢI TIẾN KỸ THUẬT, QUẢN LÝ Ở ĐỐI TƯỢNG NGAO (MERETRIX SPP) NUÔI THƯƠNG PHẨM TẠI HẢI PHÒNG STATUS AND PROPOSAL IMPROVED TECHNIQUES AND MANAGEMENT FOR COMMERCIAL CLAM FARMING IN HAI PHONG Nguyễn Hữu Uông1, Đỗ Thị Hòa2 Ngày nhận bài: 26/11/2012; Ngày phản biện thông qua: 28/02/2013; Ngày duyệt đăng: 10/9/2013 TÓM TẮT Nuôi trồng thủy sản (NTTS) là một nghề truyền thống của nhân dân Hải Phòng đã và đang phát triển mạnh ở cả ba vùng nước ngọt, lợ, mặn. Định hướng của ngành thủy sản Hải Phòng đến năm 2020 là xác định nuôi trồng thủy sản là lĩnh vực có nhiều lợi thế phát triển, trong đó ưu tiên phát triển nuôi hải sản nước mặn khu vực ven đảo Cát Bà, Long Châu, Bạch Long Vỹ... Quan tâm phát triển nuôi động vật thân mềm ven biển (ngao, vẹm, tu hài...), với diện tích 1.500 - 2.000ha, đặc biệt triển nghề nuôi ngao. Hiện nay nghề nuôi ngao tại Hải Phòng vẫn mang tính tự phát, có nhiều rủi ro, không ít hộ nuôi ngao đã bị thất thu do xuất hiện bệnh, làm chết hàng loạt ngao nuôi. Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi thực hiện nghiên cứu “Hiện trạng và đề xuất cải tiến kỹ thuật, quản lý ở đối tượng ngao nuôi thương phẩm (Meretrix spp) nuôi tại Hải Phòng”. Đề tài sử dung bộ số liệu điều tra qua thống kê 5 năm (2005 - 2010) và điều tra ngẫu nhiên thông qua bộ câu hỏi kết hợp với thu mẫu ngao nuôi, đánh giá trực tiếp tại hiện trường. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiện trạng nghề nuôi ngao tại Hải Phòng mới phát triển một hai năm gần đây. Bãi nuôi ngao nuôi thường có diện tích nhỏ hơn 5ha/bãi, nuôi ở vùng trung hoặc hạ triều, có chất đáy chủ yếu là cát bùn. Kích cỡ ngao giống các hộ thả nuôi chủ yếu thuộc nhóm từ 500 đến dưới 800 con/kg (chiếm tỷ lệ 40,62%), tiếp theo là cỡ từ 800 đến 1.200 con/kg (chiếm tỷ lệ 28,12%) và cỡ từ 400 đến dưới 500 con/kg (chiếm tỷ lệ 25%). Với tổng diện tích nuôi của Hải Phòng có xu thế giảm dần từ 345 ha nuôi vào năm 2005, đến năm 2010 diện tích này chỉ còn 234 ha. Tuy nhiên, tổng sản lượng thu được vào năm 2010 lại tăng rất cao, đạt 1.950 tấn so với 141 tấn năm 2005, sản lượng đã tăng 13,8 lần. Từ khóa: nuôi trồng thủy sản, cải tiến kỹ thuật, nuôi ngao, Hải Phòng ABSTRACT Aquaculture was considered one of traditional job in Hai Phong city, now has been developing rapidly in fresh, brackish and salt waters. Master plan in fishery approved by Hai Phong committee from now to 2020, aquaculture will be priority field for development, especially in coastal areas around islands such as Cat Ba, Long Chau, Bach Long Vy. Of which, bivalve culture (clams, mussel, otter clam...) is considered as the main commercial species. As the plan, the cultured area for is estimated about 1.500 - 2.000ha with emphasis on clam culture. Clams is currently culturing spontaneously. Therefore it has been faced to high risks. So many households lost their property due to mass death causing by environmental and disease problems. Base on above problem, I studied the project “Status and proposal for technique improvements and management for commercial clam culture in Hai Phong”. The study using statistical data collected in 5 yeas and random survey method by questionnaire, random samples of cultured clams in the field also were collected. The results show that clam culture is recently developing in Hai Phong. Cultured area is usually smaller than 5 ha/farm in the low or intertidal areas where having sand and sandy mud bottom. Clam sizes for rearing mainly from 500-800 individuals/kg (40,62%) following by 800-1.200 individuals/kg (28,12%) and 400-500 individuals/kg (25%). Total culture area has a tendency of decreasing from 345 ha in 2005 to 234 ha in 2010. However, total production in 2010 was 1.950 tons, 13,8 times higher in comparison to the year 2005 (141 tons). Keywords: aquaculture, improving techniques, clam culture, Hai Phong 1 2 Nguyễn Hữu Uông: Cao học Nuôi trồng thủy sản 2009 - Trường Đại học Nha Trang PGS.TS. Đỗ Thị Hòa: Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang 84 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản I. ĐẶT VẤN ĐỀ Ở Việt Nam, nghề nuôi ngao bắt đầu có từ những năm 90 của thế kỷ XX. Có nhiều loài thuộc giống ngao Meretrix đã được nuôi phổ biến ở Việt Nam, bao gồm các loài ngao dầu Meretrix meretrix, ngao Bến Tre Meretrix lyrata, ngao vân Meretrix lusoria... Tại Hải Phòng, nuôi động vật thân mềm đã phát triển từ cuối năm 2000 với đối tượng nuôi chính là ngao. Vùng nuôi chủ yếu tập trung tại các quận, huyện như Cát Hải, Đồ Sơn, Tiên Lãng, Dương Kinh và Kiến Thụy với tổng diện tích có thể nuôi là 2.185ha đã mang lại lợi nhuận cho nhiều nông dân vùng ven biển. Tuy nhiên, đây là nghề sản xuất có nhiều rủi ro, không ít hộ nuôi ngao đã bị thất thu do dịch bệnh, làm ngao nuôi chết hàng loạt. Xuất phát từ thực tiễn trên, việc nghiên cứu về hiện trạng kỹ thuật nuôi ngao ở Hải Phòng là hết sức cần thiết và cấp bách. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Hiện trạng và đề xuất cải tiến kỹ thuật, quản lý ở đối tượng ngao nuôi thương phẩm (Meretrix spp) nuôi tại Hải Phòng”, nhằm làm đầy đủ thêm các nghiên cứu về cải tiến kỹ thuật nuôi, bệnh và tác hại của bệnh đối với đối tượng ngao nuôi làm cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo. Bên cạnh đó kết quả của đề tài sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế của nghề nuôi ngao tại Hải Phòng. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu về hiện trạng kỹ thuật ở đối tượng ngao nuôi thương phẩm tại Hải Phòng. 2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Điều tra các số liệu thứ cấp Điều tra thu thập tài liệu, số liệu thống kê nhiều năm của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hải Phòng, Cục Thống kê thành phố Hải Phòng, Trung tâm khuyến ngư, với các thông tin: vùng nuôi ngao, diện tích, năng suất, sản lượng ngao từ năm 2005 đến 2010, số hộ nuôi và phân bố của các hộ ...

Tài liệu có liên quan: