
HỔ TRONG NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH XƯA
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 125.36 KB
Lượt xem: 28
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Năm Kỷ Sửu đã qua, năm Canh Dần đã tới. Trâu đi Cọp lại. Quả thật “thời gian thấm thoắt thoi đưa, nó đi đi mất, có chờ chờ ai”. Mưa xuân đầy bụi. Hoa đào ngậm nụ. Con trâu Kỷ Sửu đang bàn giao thời gian cho con hổ Canh Dần. 12 năm, hổ thời gian lại về một lần. Nhưng hổ nghệ thuật đã sinh ra thì ở mãi với người. Có thể nói, từ thời Trần hổ đã chính thức đi vào nghệ thuật bằng những tượng tròn ở lăng Trần Thủ Độ (Thái Bình), lăng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
HỔ TRONG NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH XƯA HỔ TRONG NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH XƯA tướng cưỡi hổ ở đình Chu Quyến Năm Kỷ Sửu đã qua, năm Canh Dần đã tới. Trâu đi Cọp lại. Quả thật “thời gian thấm thoắt thoi đưa, nó đi đi mất, có chờ chờ ai”. Mưa xuân đầy bụi. Hoa đào ngậm nụ. Con trâu Kỷ Sửu đang bàn giao thời gian cho con hổ Canh Dần. 12 năm, hổ thời gian lại về một lần. Nhưng hổ nghệ thuật đã sinh ra thì ở mãi với người. Có thể nói, từ thời Trần hổ đã chính thức đi vào nghệ thuật bằng những tượng tròn ở lăng Trần Thủ Độ (Thái Bình), lăng Trần Hiến Tông (Quảng Ninh) bằng hình khắc ở bệ đá chùa Quế Dương (Hà Tây) con nằm, con ngồi, con nào cũng sinh động lạ thường, hiền lành mà trang nghiêm. Hổ ở lăng Trần Thủ Độ sau nhiều năm ở ngoài trời đã về ngự trong bảo tàng, trở thành tài sản nghệ thuật vô giá của cả dân tộc. Nghệ sĩ xưa không lệ thuộc vào con vật mẫu mình thấy, nắm chắc đặc tính của hổ, tổng hợp cái đẹp của nhiều con thú khác nhau, rồi cách điệu với thủ pháp vừa khỏe mạnh vừa phóng khoáng: đầu nghểnh cao đung đưa bờm phủ gáy rất mượt, trên toàn thân bắp thịt nổi lên mập mạp tưởng như đang rung lên phập phồng, chân và nhất là đuôi nổi hẳn lên hình khối rắn chắc rất khỏe. Rồi những con hổ đá thời Lê ở Lam Sơn (Thanh Hóa v.v... Hổ chạm thành khối tượng tròn trên đá rất nhiều, nhưng nhiều hơn cả vẫn là hổ chạm nổi, chạm lộng trên gỗ. Hàng loạt đình làng khắp mọi vùng quê thuộc các thế kỷ XVI, XVII, XVIII người nghệ sĩ dân gian đã để lại cho chúng ta rất nhiều hình hổ đá khác nhau thường ở thể tĩnh. Đồng loại của chúng trên gỗ bao giờ cũng động, cũng ở giai điểm mạnh mẽ nhất, và cùng với hoạt động của con người tạo thành những hoạt cảnh vui mắt, nhộn nhịp, khẩn trương hết sức. Tại đình Chu Quyến (Hà Tây), trong hoạt cảnh táng mả vào hàm rồng một con hổ thon lẳn chạy ngoi lên theo bước chân cậu bé Bộ Lĩnh đang hăm hở và láu lỉnh đưa gói xương cốt vào miệng con rồng, vừa há miệng quẫy đuôi vui vẻ. Con hổ ở đây mắt ánh lên, răng hơi nhe ra nhưng nghệ sĩ đã cho nó một dáng điệu rất dễ thương của con chó cún. Sang đình Đông Viên (Hà Tây), con hổ cũng như con rắn, lại cùng với các chàng trai tinh nghịch xông vào đám mấy cô gái đang tắm trong đầm sen để đùa bỡn. Các cô nhớn nhác muốn ẩn náu, nhưng chạy sang phải bị chàng trai giơ rắn dọa, chạy sang trái bị chàng trai cưỡi hổ vượt lên cản, lánh dưới đầm sen thì lại bị một chàng trai khác chiếm chỗ trước rồi. Các cô thu mình khép kín, vuốt mớ tóc dài, chẳng cần chạy nữa, cứ phô bày tất cả vẻ đẹp của cơ thể, nhưng không hớ hênh mà thật là kín đáo. Con hổ ở đây đồng tình với các chàng trai, dọa mà lại cười, toàn thân rung lên thích thú. Đình Chay (Hà Nam Ninh) có cảnh người đấu hổ hết sức khẩn trương, trên đầu đài, võ sinh mình trần đóng khố, tay mộc tay dao, mặt rất hân hoan, lanh lẹn d ùng trí đấu với sức mạnh của con hổ vằn. Hổ dùng thân, nhoai lên trên hai chân sau, dồn cả sức mạnh ghê gớm xông vào võ sĩ. Hai chân trước muốn cào muốn xé, răng nhe ra, mắt gườm gườm, đầu nhoi nhoi và cái đuôi vùng vẫy bực tức. Cuộc đấu đang ở giây phút căng thẳng nhất, chưa phân thắng bại nhưng rõ ràng đã báo trước vinh quang thuộc về người võ sĩ nhanh nhẹn và thông minh. Đình Thổ Tang (Vĩnh Phú) lại chạm cảnh người săn hổ. Người thợ săn giáp trận, bình tĩnh bắn súng kíp, còn con hổ có lẽ đã quẩn, nhe miệng ra kêu tuyệt vọng đưa chân sau lên gãi tai, thân uốn buồn bã... Khó mà thăm hết hổ chạm gỗ ở các đình làng. Hình hổ quen thuộc với mọi người nhất, hẳn là ở những bức tranh Hàng Trống (Hà Nội). Khi thì hổ đơn, khi thì hổ bầy lúc nhúc 5 con hổ. Hổ được nghệ sĩ tập trung khuếch đại những chi tiết cơ thể theo một cử động nhất định, tĩnh mà muốn vọt lên, nhanh nhẹn, mềm mại. Tất cả mọi thành phần cơ thể cần cho sự nhảy vọt đều được nhân cách hoá, toàn thể vẫn hài hòa, các cử động khác thường hoàn toàn rất thực. Con nào cũng sống với cường độ muốn nhảy khỏi khung tranh để tham gia vào cuộc sống thực. Các mảng màu cứ chờn vờn, lấp lánh càng tăng thêm độ sáng của mảng khối và đường nét. Trong nền điêu khắc cổ Việt Nam mô típ “hổ vờn mồi”, “hổ vờn trăng”, “hồ và đại bàng”... thường được dùng để diễn tả một sức mạnh, một ý chí và khai thác chất thơ trong cái hùng của loài thú sơn lâm. Nhưng ở đây, ngay từ sự khởi tứ, tạo dáng, người nghệ sĩ đã tránh được đường mòn trong nghệ thuật cổ nước ta khi mượn hình tượng hổ. Họ không dùng cái “cương” để hiện sức mạnh, cũng chẳng “vẽ may để vờn trăng”, mà dùng ngay cái “nhu”, cái “mềm” để biểu hiện chất “hùng”, chất “thép”, khai thác nó ở ngay những hình ảnh bình thường nhất nhưng mang đầy ý vị của trí tuệ đã trải đời. Đề tài về hổ còn thấy trong nghệ thuật gốm xưa Việt Nam và nhất là trong tranh dân gian, nếu gạt bỏ cái vỏ tôn giáo đi sẽ trở thành những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao như các tranh ngũ hổ, bạch hổ hay hắc hổ... do sự phối hợp đường nét, hình khối và màu sắc tài tình của nghệ sĩ đã tạo nên những bức tranh hổ tuyệt diệu, đầy sức sống mãnh liệt, biểu hiện trên nét mặt, chòm râu, ánh mắt s ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
HỔ TRONG NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH XƯA HỔ TRONG NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH XƯA tướng cưỡi hổ ở đình Chu Quyến Năm Kỷ Sửu đã qua, năm Canh Dần đã tới. Trâu đi Cọp lại. Quả thật “thời gian thấm thoắt thoi đưa, nó đi đi mất, có chờ chờ ai”. Mưa xuân đầy bụi. Hoa đào ngậm nụ. Con trâu Kỷ Sửu đang bàn giao thời gian cho con hổ Canh Dần. 12 năm, hổ thời gian lại về một lần. Nhưng hổ nghệ thuật đã sinh ra thì ở mãi với người. Có thể nói, từ thời Trần hổ đã chính thức đi vào nghệ thuật bằng những tượng tròn ở lăng Trần Thủ Độ (Thái Bình), lăng Trần Hiến Tông (Quảng Ninh) bằng hình khắc ở bệ đá chùa Quế Dương (Hà Tây) con nằm, con ngồi, con nào cũng sinh động lạ thường, hiền lành mà trang nghiêm. Hổ ở lăng Trần Thủ Độ sau nhiều năm ở ngoài trời đã về ngự trong bảo tàng, trở thành tài sản nghệ thuật vô giá của cả dân tộc. Nghệ sĩ xưa không lệ thuộc vào con vật mẫu mình thấy, nắm chắc đặc tính của hổ, tổng hợp cái đẹp của nhiều con thú khác nhau, rồi cách điệu với thủ pháp vừa khỏe mạnh vừa phóng khoáng: đầu nghểnh cao đung đưa bờm phủ gáy rất mượt, trên toàn thân bắp thịt nổi lên mập mạp tưởng như đang rung lên phập phồng, chân và nhất là đuôi nổi hẳn lên hình khối rắn chắc rất khỏe. Rồi những con hổ đá thời Lê ở Lam Sơn (Thanh Hóa v.v... Hổ chạm thành khối tượng tròn trên đá rất nhiều, nhưng nhiều hơn cả vẫn là hổ chạm nổi, chạm lộng trên gỗ. Hàng loạt đình làng khắp mọi vùng quê thuộc các thế kỷ XVI, XVII, XVIII người nghệ sĩ dân gian đã để lại cho chúng ta rất nhiều hình hổ đá khác nhau thường ở thể tĩnh. Đồng loại của chúng trên gỗ bao giờ cũng động, cũng ở giai điểm mạnh mẽ nhất, và cùng với hoạt động của con người tạo thành những hoạt cảnh vui mắt, nhộn nhịp, khẩn trương hết sức. Tại đình Chu Quyến (Hà Tây), trong hoạt cảnh táng mả vào hàm rồng một con hổ thon lẳn chạy ngoi lên theo bước chân cậu bé Bộ Lĩnh đang hăm hở và láu lỉnh đưa gói xương cốt vào miệng con rồng, vừa há miệng quẫy đuôi vui vẻ. Con hổ ở đây mắt ánh lên, răng hơi nhe ra nhưng nghệ sĩ đã cho nó một dáng điệu rất dễ thương của con chó cún. Sang đình Đông Viên (Hà Tây), con hổ cũng như con rắn, lại cùng với các chàng trai tinh nghịch xông vào đám mấy cô gái đang tắm trong đầm sen để đùa bỡn. Các cô nhớn nhác muốn ẩn náu, nhưng chạy sang phải bị chàng trai giơ rắn dọa, chạy sang trái bị chàng trai cưỡi hổ vượt lên cản, lánh dưới đầm sen thì lại bị một chàng trai khác chiếm chỗ trước rồi. Các cô thu mình khép kín, vuốt mớ tóc dài, chẳng cần chạy nữa, cứ phô bày tất cả vẻ đẹp của cơ thể, nhưng không hớ hênh mà thật là kín đáo. Con hổ ở đây đồng tình với các chàng trai, dọa mà lại cười, toàn thân rung lên thích thú. Đình Chay (Hà Nam Ninh) có cảnh người đấu hổ hết sức khẩn trương, trên đầu đài, võ sinh mình trần đóng khố, tay mộc tay dao, mặt rất hân hoan, lanh lẹn d ùng trí đấu với sức mạnh của con hổ vằn. Hổ dùng thân, nhoai lên trên hai chân sau, dồn cả sức mạnh ghê gớm xông vào võ sĩ. Hai chân trước muốn cào muốn xé, răng nhe ra, mắt gườm gườm, đầu nhoi nhoi và cái đuôi vùng vẫy bực tức. Cuộc đấu đang ở giây phút căng thẳng nhất, chưa phân thắng bại nhưng rõ ràng đã báo trước vinh quang thuộc về người võ sĩ nhanh nhẹn và thông minh. Đình Thổ Tang (Vĩnh Phú) lại chạm cảnh người săn hổ. Người thợ săn giáp trận, bình tĩnh bắn súng kíp, còn con hổ có lẽ đã quẩn, nhe miệng ra kêu tuyệt vọng đưa chân sau lên gãi tai, thân uốn buồn bã... Khó mà thăm hết hổ chạm gỗ ở các đình làng. Hình hổ quen thuộc với mọi người nhất, hẳn là ở những bức tranh Hàng Trống (Hà Nội). Khi thì hổ đơn, khi thì hổ bầy lúc nhúc 5 con hổ. Hổ được nghệ sĩ tập trung khuếch đại những chi tiết cơ thể theo một cử động nhất định, tĩnh mà muốn vọt lên, nhanh nhẹn, mềm mại. Tất cả mọi thành phần cơ thể cần cho sự nhảy vọt đều được nhân cách hoá, toàn thể vẫn hài hòa, các cử động khác thường hoàn toàn rất thực. Con nào cũng sống với cường độ muốn nhảy khỏi khung tranh để tham gia vào cuộc sống thực. Các mảng màu cứ chờn vờn, lấp lánh càng tăng thêm độ sáng của mảng khối và đường nét. Trong nền điêu khắc cổ Việt Nam mô típ “hổ vờn mồi”, “hổ vờn trăng”, “hồ và đại bàng”... thường được dùng để diễn tả một sức mạnh, một ý chí và khai thác chất thơ trong cái hùng của loài thú sơn lâm. Nhưng ở đây, ngay từ sự khởi tứ, tạo dáng, người nghệ sĩ đã tránh được đường mòn trong nghệ thuật cổ nước ta khi mượn hình tượng hổ. Họ không dùng cái “cương” để hiện sức mạnh, cũng chẳng “vẽ may để vờn trăng”, mà dùng ngay cái “nhu”, cái “mềm” để biểu hiện chất “hùng”, chất “thép”, khai thác nó ở ngay những hình ảnh bình thường nhất nhưng mang đầy ý vị của trí tuệ đã trải đời. Đề tài về hổ còn thấy trong nghệ thuật gốm xưa Việt Nam và nhất là trong tranh dân gian, nếu gạt bỏ cái vỏ tôn giáo đi sẽ trở thành những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao như các tranh ngũ hổ, bạch hổ hay hắc hổ... do sự phối hợp đường nét, hình khối và màu sắc tài tình của nghệ sĩ đã tạo nên những bức tranh hổ tuyệt diệu, đầy sức sống mãnh liệt, biểu hiện trên nét mặt, chòm râu, ánh mắt s ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
hình tượng con hổ kiến thức điêu khắc chạm khắc tượng biểu tượng văn hóa tượng dân gian nghệ thuật điêu khắcTài liệu có liên quan:
-
6 trang 264 0 0
-
Khám phá những pho tượng độc, dị nhất Việt Nam
17 trang 204 1 0 -
Điêu khắc thời Trần (1225 – 1400)
17 trang 87 0 0 -
10 trang 64 0 0
-
7 trang 62 1 0
-
4 trang 61 0 0
-
16 trang 60 0 0
-
Điêu khắc Việt Nam: Vật vã tìm chỗ đứng
8 trang 59 0 0 -
16 trang 59 0 0
-
9 trang 58 0 0
-
Điêu khắc Việt Nam qua các thời kỳ phong kiến
3 trang 58 0 0 -
Giáo trình Mỹ thuật - Trường Cao đẳng Y Hà Nội
81 trang 57 0 0 -
14 trang 57 0 0
-
Nghệ thuật sắp đặt trên đường phố
10 trang 56 0 0 -
10 tác phẩm điêu khắc nổi tiếng nhất thế giới
19 trang 56 0 0 -
Độc đáo bộ tượng Thập Bát La Hán bằng gỗ 100 năm tuổi
23 trang 56 0 0 -
10 tác phẩm điêu khắc gỗ mềm mại rất khó tin
21 trang 54 0 0 -
34 trang 54 0 0
-
Barbara Hepworth: Bàn tay to làm nên tất cả
19 trang 53 0 0 -
Bé sơ sinh lằm trong lòng bàn tay
8 trang 53 0 0