Danh mục tài liệu

'Hội chứng tôm chết sớm' tác động đến tôm ở Châu Á

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 340.96 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Một nghiên cứu của Tiến sĩ Donald V. Lightner OIE Reference Laboratory Phòng Thí nghiệm các bệnh của tôm Khoa Khọc học Thú y và Vi sinh học Đại học Bang Arizona, Mỹ Tóm tắt: Hội chứng tôm chết sớm – Early Mortality Syndrome (EMS) là một dạng bệnh mới của tôm đã được phát hiện ở các trang trại nuôi tôm ở Châu Á. Bệnh xuất hiện trong vòng 30 ngày sau khi thả và gây ra các triệu chứng như lờ đờ, vỏ mềm sậm lại và đầu ngực bị đốm vằn. Các tác động sinh lý...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
“Hội chứng tôm chết sớm” tác động đến tôm ở Châu Á“Hội chứng tôm chết sớm” tác động đến tôm ở Châu Á Một nghiên cứu của Tiến sĩ Donald V. Lightner OIE Reference Laboratory Phòng Thí nghiệm các bệnh của tôm Khoa Khọc học Thú y và Vi sinh học Đại học Bang Arizona, MỹTóm tắt: Hội chứng tôm chết sớm – Early Mortality Syndrome (EMS) làmột dạng bệnh mới của tôm đã được phát hiện ở các trang trại nuôitôm ở Châu Á. Bệnh xuất hiện trong vòng 30 ngày sau khi thả và gây racác triệu chứng như lờ đờ, vỏ mềm sậm lại và đầu ngực bị đốm vằn.Các tác động sinh lý học của bệnh EMS xuất hiện giới hạn ở gan tụy. Ởgiai đoạn cuối của bệnh gây chết cao, sự nhiễm khuẩn phái sinh tiếptục gây tổn thương gan tụy.Một bệnh mới đã xuất hiện ở các trang trại tôm nằm ở phía nam TrungQuốc và đảo Hải Nam vào năm 2010. Đầu năm 2011, Hội chứng tômchết sớm (EMS) cũng đã được phát hiện tại Việt Nam và Malaysia.Bệnh xuất hiện trong vòng 20 đến 30 ngày sau khi thả giống. Cả hailoại tôm: Tôm sú P. monodon và tôm thẻ chân trắng L. vannamei đềubị ảnh hưởng bệnh này.Tỉ lệ chết có thể lên đến 100% ở các ao bị nhiễm bệnh nặng khi mà tômnhiễm bệnh trở nên lờ đờ và bỏ ăn. Ở lát cắt đơn, cơ quan gan tụy củatôm có thể teo lại có màu hơi trắng và sọc đen. Các dấu hiệu khác cóthể thấy như vỏ mềm, màu thường sẫm lại và đầu ngực tôm bị đốm vằn.Bệnh lý họcCả 2 loại tôm sú P. monodon và tôm thẻ L. vannamei bị bệnh EMS đềuthể hiện bệnh lý giống nhau. Các mẫu tôm dành phân tích mô học đềucho thấy các tác động của bệnh EMS chỉ giới hạn ở gan tụy(H.P.). Hoạt động khác thường tiến triển ở gan tụy đã cho kết quả cáctổn thương thể hiện sự suy thoái và sự bất bình thường của các tế bàobiểu mô ống phát sinh ở gần đầu đến ngoại biên.Sự thay đổi đầu tiên quan sát được ở gan tụy của tôm bệnh là giảm rõrệt túi tế bào dữ trự mỡ và mất giọt mỡ, cũng như giảm hoạt động củacác tế bào bài tiết. Khi bệnh tiến triển, các tế bào mỡ, các tế bàobasophyl và bài tiết bị suy thoái và bắt đầu tạo thành vòng tròn, táchkhỏi màng nền ống gan tụy và kết vào phần trong ống gan tụy.Kèm theo sự suy thoái của các tế bào này nhiều ở khu vực gần ống gantụy, số lượng các tế bào E hoạt động trong quá trình nguyên phân giảmvà phản ứng viêm nhiễm rõ rệt bị chi phối bởi sự thâm nhiễm huyếttương và bọc gói ống gan tụy nhiễm bệnh.Khi các tế bào biểu mô ống suy thoái, các nhân của chúng biến đổitrương phình, các nhân hầu hết đều to lên. Ở giai đoạn cuối của bệnh,dạng viêm nhiễm phái sinh nghiêm trọng có thể gây ra bởi vi khuẩn cơhội Vibrio xảy ra ở khối tế bào biểu mô bị kết dính ở trong ống gan tụy.Tôm bệnh chết do suy thoái gan tụy và nhiễm Vibrio giai đoạn cuối.Nguyên nhân bệnhBệnh thoái hóa gan tụy giả thuyết phần lớn cho nguyên nhân là bịnhiễm độc. Các tổn thương tương tự đã được báo cáo về gan tụy củatôm phơi nhiễm độc tố aflatoxin B1 (độc tố sản sinh do các loài nấmAspergillus) và chất benomyl (chất diệt nấm) ức chế nguyên phân đãxác nhận thêm cho lý luận này.Các nghiên cứu để xác định nguyên nhân gây ra bệnh EMS được tiếnhành tại Đai học Arizona Phòng thí nghiệm Bệnh học Thủy sản vẫnchưa thành công. Phòng thí nghiệm đã xét nghiệm thức ăn thươngphẩm lấy ở các trang trại tôm nhiễm bệnh EMS và các mẫu tôm đônglạnh bị bệnh EMS từ các trang trại nhiễm bệnh đã được sử dụng đểnghiên cứu tính lây nhiễm. Chất diệt giáp xác thường sử dụng trước khithả giống trong khu vực nuôi để diệt các sinh vật gây hội chứng đốmtrắng cũng đã được xét nghiệm. Cho đến nay, Phòng Thí nghiệm Đạihọc Arizona chưa thể gây bệnh thực nghiệm gan tụy phù hợp với cáctổn thương đã quan sát trên tôm nhiễm bệnh EMS.Khảo sát bằng kính hiển vi phóng đại 40 lần mặt cắt mô gan tụy chothấy các tế bào bài tiết bình thường (B), các tế bào dữ trự mỡ (R) và cáctế bào basophil to lên. Các tế bào E, nhiều tế bào đang trong quá trìnhnguyên phân được nhìn thấy ở phần hình nhỏ (phóng đại 20 lần).Hình kính hiển vi phóng đại 40 lần, mô gan tụy từ tôm sú P. monodonbị nhiễm nặng ở giai đoạn đầu của bệnh EMS. Phần ngọn ống (với cáctế bào E) vẫn nguyên vẹn, còn các phần gần ống gan tụy hơn cho thấysự hoại tử và kết dính các tế bào biểu mô ống.Gan tụy của tôm thẻ L. vannamei ở giai đoạn cuối bệnh EMS. Trong sốcác tế bào biểu mô ống gan tụy HP là các khối vi khuẩn nhuộm hơixanh (phóng đại 4 lần). ...