Danh mục tài liệu

LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG HÀ NỘI - Làng nghề kim hoàn

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 136.99 KB      Lượt xem: 21      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Hà Nội - Làng nghề kim hoànMặc dù chúng ta đã quá quen thuộc với những mặt hàng của đồ trang sức hoặc những vật dụng trang trí hay đồ mỹ nghệ bằng vàng bạc nhưng khi nói tới lịch sử, xuất xứ nghề kim hoàn ở nước ta, ít có người quan tâm tới. Ở nước ta, hai kinh đô Thăng Long và Huế là nơi có lịch sử truyền thống lâu đời mang tính tập trung của những người thợ làm vàng bạc nổi tiếng, những nghệ nhân đó đã được lớp hậu duệ tôn thờ mãi cho...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG HÀ NỘI - Làng nghề kim hoàn Hà Nội - Làng nghề kim hoànMặc dù chúng ta đã quá quen thuộc với những mặt hàng của đồ trang sức hoặcnhững vật dụng trang trí hay đồ mỹ nghệ bằng vàng bạc nhưng khi nói tới lịch sử,xuất xứ nghề kim hoàn ở nước ta, ít có người quan tâm tới. Ở nước ta, hai kinh đô Thăng Long và Hu ế là nơi có lịch sử truyền thống lâuđời mang tính tập trung của những người thợ làm vàng bạc nổi tiếng, những nghệnhân đó đã được lớp hậu duệ tôn thờ mãi cho tới ngày nay. Ở kinh đô ThăngLong trước đây, làng Đình Công Thượng là cơ sở phục vụ vàng bạc sớm nhất chokinh thành Thăng Long. Dân gian kể lại rằng, vào cuối thế kỷ VI, ở làng ĐìnhCông có ba anh em họ Trần là Trần Hòa, Trần Điện và Trần Điền, do nghèo khổdưới ách thống trị của nhà Đường làm cho anh em họ Trần phải tha phương cầuthực tới một nước láng giềng, rồi từ đó họ học được nghề kim hoàn. Khi trở vềquê hương, họ truyền nghề cho dân làng. Sau này làng Đình Công có nghề truyềnthống vàng bạc phục vụ thị trường ở Thăng Long. Từ thế kỷ XVIII, XIX khi nềnkinh tế Thăng Long, Hà Nội ngày một phát triển cao, những nghệ nhân này mớiđi dần lên Thăng Long hành nghề bằng chuyên môn của mình là các đồ nữ trangnhư hoa tai, xuyến, vòng... ở phố Hàng Bạc ngày nay. Thế kỷ XV, khi ngànhluyện kim ở nước ta tiến bộ, nghề đúc bạc nén bước vào giai đoạn mới, thoát thaitừ làng Trần Khê (huyện Bình Giang, tỉnh Hải Hưng). Dân gian kể lại rằng, dưới thới Lê Thánh Tông (1461) trong làng này có ôngLưu Xuân Tín được vua cho phép lập nên một tràng đúc bạc và tiền ở ThăngLong, sau đó làm tới chức Thượng Thư Bộ Lại, rồi được tôn làm thủy tổ củanghề đúc bạc. Về sau, người làng của ông ra Thăng Long hành nghề ngày càngđông. Phố Hàng Bạc được thành lập từ đó. Họ đã xây dựng nên các tràng đúc bạc(nay là 58 phố Hàng Bạc) làm nơi sản xuất. Hai ngôi đình: Thượng Đình (số 50Hàng Bạc) và Kim Ngân Đình (số 42 Hàng Bạc) là nơi giao nộp thành phẩm choNhà nước đương thời. Qua thời gian, nhu cầu về vàng bạc càng ngày càng lớn.Phố Hàng Bạc còn có thêm một số nghệ nhân người làng Đồng Sâm (huyện KimSương, tỉnh Thái Bình) đến đây làm ăn sinh sống, với sở trường chạm trổ nhữngđồ vật lớn bằng bạc như hộp trầu, chén bát dĩa, đỉnh, lư đèn... Ông Tổ của phái này là Nguyễn Kim Lân, sống vào thế kỷ XV. Thời TrịnhNguyễn phân tranh, các Chúa Nguyễn trị vì xứ Đàng Trong, nơi có nhiều mỏvàng như Bồng Miêu, Trà Kiệu, vàng của dân tộc Chàm (Chămpa) do các vuachúa chôn giấu. Đến cuối đời Chúa Nguyễn Phúc Khoát, có ông Cao Đình Độ,sinh năm 1746, người làng Cẩm Tú, tỉnh Thanh Hóa, sống bằng nghề bịt đồngthau (hàn khay gãy, bịt chén bể) nhờ đôi tay khéo léo, thông minh sáng tạo, ônghọc nghề kim hoàn với một Hoa Kiều và đã trở thành một nghệ nhân đặc biệt.Sau đó thành nghề, ông mang vợ và con trai của ông là Cao Đình Hương (sinhnăm 1773) vào Thuận Hóa, lập nghiệp tại làng Kế Môn (nay thuộc huyện phongĐiền - Thừa Thiên Huế) được Hoàng đế Quang Trung triệu cả hai cha con vàocung, lập Cơ vệ ngành ngân tượng, chuyên làm đồ trang sức cho Hoàng Gia. Saungày Nguyễn Ánh chiếm Thuận Hóa, tất cả những thành tựu văn hóa được xâydựng thời Tây Sơn đều bị phá hủy. Riêng ngành ngân tượng vẫn giữ nguyên. ÔngCao Đình Độ và con trai của ông bị buộc phải tiếp tục phục vụ cho vua quan nhàNguyễn. Cả hai cha con đều được tôn vinh là đệ nhất và đệ nhị Tổ sư nghề kim hoàntại Huế. Đến nay, truyền thừa đã được hơn 7 đời, phát triển vào khắp miền Trungvà Nam, vào ngày giỗ Tổ, các thợ kim hoàn xuất xứ ở đây đều tựu về Tổ Đinhkim hoàn thăm viếng và dâng hương đông đảo. Lăng mộ của hai ông được kiếntrúc công phu, trang trọng, bề thế và đẹp đẽ. Chất lượng của vàng bạc rất phứctạp, chúng ta có vàng lá (còn gọi là vàng điệp, vàng 10 tuổi dưới dạng lá mỏng,như vàng lá Kim Thành). Vàng nén (hay còn gọi là vàng ròng, dưới dạng thỏi,mỗi thỏi nặng mỗi yến, theo cân Trung Quốc). Vàng Hời (vàng chôn dưới đất lâunăm của dân Chàm ngày xưa, vàng này có pha lẫn với nhiều bạc, nên có màuvàng xanh, từ 6 đến 6,5 tuổi, thường đào lên gặp quả cau, con rùa, con cua,buồng chuối, ông Phật...) Vàng Bồng Miêu (hiện đang khai thác quy mô ởQuảng Nam - Đà Nẵng, đó là loại vàng sa khoáng, có dạng hạt tấm, bụi cát, lẫntrong đất cát hoặc ẩn bên trong đá). Vàng Tây rất nhiều loại, người ta đánh giávàng Tây bằng Karat (khác với karat đo trọng lượng hạt xoàn), có 10K, 12K, 14K,16K, 18K, 20K, 24K. Có loại nhập cảnh dưới dạng nữ trang, có loại hộp chế gồmhợp kim đồng, bạc với vàng ta, để thành vàng Tây. Vàng hóa học thường dùngtrong mỹ nghệ, thường điều chế để bịt răng hoặc trang trí dưới nước, loại vàngnày ở dưới nước vẫn bóng loáng quanh năm, gặp không khí lâu ngày sẽ bị thâmđen. Đồng thòa (còn gọi là Đồng xứng, là hợp kim 50% vàng ta, 50% đồng đỏ,vàng thường làm bông tai để đeo). Vàng chân là loại trang sức bên trong bằngbạc hoặc đồng, nên ngoài chỉ đọc một lớp ...

Tài liệu có liên quan: