Danh mục tài liệu

Mã vạch kinh doanh

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 133.07 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mã vạch ngày nay là một bộ phận của hàng hoá. Nó giúp cho việc thuận tiện hơn trong việc xác định hàng hoá. Mã vạch là bộ ký hiệu được sử dụng trên sản phẩm để nhận biết sản phẩm, nó thể hiện thông tin mà máy móc có thể đọc được.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Mã vạch kinh doanhMã vạchMã vạch ngày nay là một bộ phận của hàng hoá. Nó giúp choviệc thuận tiện hơn trong việc xác định hàng hoá. Mã vạch làbộ ký hiệu được sử dụng trên sản phẩm để nhận biết sảnphẩm, nó thể hiện thông tin mà máy móc có thể đọc được. Ý tưởng về mã vạch được phát triển bởi Norman Joseph Woodland và Bernard Silver. Năm 1948 khi đang là sinh viên ởtrường Đại học tổng hợp Drexel, họ đã phát triển ý tưởng này saukhi được biết mong ước của một vị chủ tịch của một công ty buôn bán đồ ăn là làm sao để có thể tự động kiểm tra toàn bộ quy trình. Một trong những ý tưởng đầu tiên của họ là sử dụng mã Morse để in những vạch rộng hay hẹp thẳng đứng. Sau đó, họchuyển sang sử dụng dạng điểm đen của mã vạch với các vòng tròn đồng tâm. Họ đã gửi đến cơ quan quản lý sáng chế Mỹ 2,612,994 ngày 20 tháng 10 năm 1949 công trình Classifying Apparatus and Method (Thiết bị và phương pháp phân loại) để lấy bằng sáng chế. Bằng sáng chế đã được phát hành ngày 7 tháng 10 năm 1952. Thiết bị đọc mã vạch đầu tiên được thiết kế và xây dựng bởiWoodland (khi đó đang làm việc cho IBM) và Silver năm 1952. Nó bao gồm một đèn dây tóc 500 W và một ống chân không nhânquang tử được sản xuất bởi RCA cho các phim có âm thanh (nóđể in theo phương pháp quang học lên trên phim). Thiết bị này đã không được áp dụng trong thực tế: để có dòng điện đo đượcbằng các nghiệm dao động (oscilloscope) thì đèn công suất 500 W gần như đã làm cháy giấy có mẫu mã vạch đầu tiên của họ.Nó đã không được sản xuất đại trà. Năm 1962 họ bán sáng chếnày cho công ty Philips, sau đó Philips lại bán nó cho RCA. Phátminh ra tia laser năm 1960 đã làm cho các thiết bị đọc mã vạchtrở nên rẻ tiền hơn, và sự phát triển của mạch bán dẫn (IC) làm cho việc giải mã các tín hiệu thu được từ mã vạch có ý nghĩathực tiễn. Đáng tiếc là Silver đã chết năm 1963 ở 38 tuổi trước khi có bất kỳ những gì thực tiễn thu được từ sáng chế này. Năm 1972, cửa hàng Kroger ở Cincinnati thử nghiệm việc sử dụng đầu đọc mã vạch điểm đen, với sự trợ giúp của RCA.Không may là các mã vạch điểm đen rất dễ nhòe khi in, và thử nghiệm đã không thu được thành công nào đáng kể. Cùng thờigian đó, Woodland ở IBM đã phát triển mã vạch tuyến tính được chấp nhận vào ngày 3 tháng 4 năm 1973 như là Mã sản phẩmchung (tiếng Anh: Universal Product Code, hay UPC). Vào ngày26 tháng 6 năm 1974, sản phẩm bán lẻ đầu tiên (gói 10 thanh kẹocao su Juicy Fruit của Wrigley) đã được bán bằng cách sử dụngđầu đọc mã vạch tại siêu thị Marsh ở Troy, Ohio. (Gói kẹo cao su này hiện nay nằm trong Viện bảo tàng quốc gia Hoa Kỳ ở Smithsonian.)Năm 1992, Woodland đã được trao tặng giải thưởng Huy chương công nghệ quốc gia bởi Tổng thống George H. W. Bush.Năm 2004, Nanosys Inc. sản xuất mã vạch nano (nanobarcode) -sợi dây kích thước nano (10-9 m) chứa các phần khác nhau của Si và GexSi1-x. Ứng dụng Mã vạch (và các thẻ khác mà máy có thể đọc được như RFID)được sử dụng ở những nơi mà các đồ vật cần phải đánh số vớicác thông tin liên quan để các máy tính có thể xử lý. Thay vì việcphải đánh một chuỗi dữ liệu vào phần nhập liệu của máy tính thì người thao tác chỉ cần quét mã vạch cho thiết bị đọc mã vạch.Chúng cũng làm việc tốt trong điều kiện tự động hóa hoàn toàn, chẳng hạn như trong luân chuyển hành lý ở các sân bay. Các dữ liệu chứa trong mã vạch thay đổi tùy theo ứng dụng.Trong trường hợp đơn giản nhất là một chuỗi số định danh đượcsử dụng như là chỉ mục trong cơ sở dữ liệu trong đó toàn bộ các thông tin khác được lưu trữ. Các mã EAN-13 và UPC tìm thấy phổ biến trên hàng bán lẻ làm việc theo phương thức này. Trong các trường hợp khác, mã vạch chứa toàn bộ thông tin về sản phẩm, mà không cần cơ sở dữ liệu ngoài. Điều này dẫn tới việc phát triển mã vạch tượng trưng mà có khả năng biểu diễnnhiều hơn là chỉ các số thập phân, có thể là bổ sung thêm các kýtự hoa và thường của bảng chữ cái cho đến toàn bộ bảng mã ký tự ASCII và nhiều hơn thế. Việc lưu trữ nhiều thông tin hơn đã dẫn đến việc phát triển của các ma trận mã (một dạng của mã vạch 2D), trong đó không chứa các vạch mà là một lưới các ôvuông. Các mã vạch cụm là trung gian giữa mã vạch 2D thực thụ và mã vạch tuyến tính, và chúng được tạo ra bằng cách đặt cácmã vạch tuyến tính truyền thống trên các loại giấy hay các vật liệu có thể in ấn mà cho phép có nhiều hàng.Việc vận dụng khả năng đánh mã số mã vạch vàoVN ngày càngđược quan tâm do khối lượng hàng hoá ngày càng lớn, phục vụ cho công tác kiểm đếm và phân loại sẽ dễ dàng hơn. Các công ty, siêu thị, nhà máy đã trang bị nhằm quản lí sản phẩm, phương tiện một cách chính xác và thuận tiện.Một bộ mã số mã vạch đang được hoàn thiện dần tại Việt nam theo đúng các tiêu chuẩn quốc tế. ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu có liên quan: