MẠCH HỌC - PHƯƠNG PHÁP CHẨN MẠCH
Số trang: 14
Loại file: pdf
Dung lượng: 132.97 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Thời Gian Xem Mạch - Thiên Mạch Yếu Tinh Vi Luận (T. Vấn 17) ghi: “Chẩn mạch thường vào lúc sáng sớm, âm khí chưa động, dương khí chưa tán, chưa ăn uống gì, kinh mạch chưa đầy, lạc mạch điều hòa, khí huyết chưa loạn,do đó, có thể tìm thấy mạch bệnh”. Tuy nhiên, Uông Thạch Sơn, trong ‘Thạch Sơn Y Án đã nhận định rằng: “Nếu gặp bệnh thì bất cứ lúc nào cũng có thể chẩn mạch, không cần chẩn mạch vào lúc sáng sớm mới được”. - Trước khi chẩn mạch, nên để cho...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
MẠCH HỌC - PHƯƠNG PHÁP CHẨN MẠCH MẠCH HỌCPHƯƠNG PHÁP CHẨN MẠCH 1- Thời Gian Xem Mạch - Thiên Mạch Yếu Tinh Vi Luận (T. Vấn 17) ghi: “Chẩn mạchthường vào lúc sáng sớm, âm khí chưa động, dương khí chưa tán, chưa ănuống gì, kinh mạch chưa đầy, lạc mạch điều hòa, khí huyết chưa loạn,do đó,có thể tìm thấy mạch bệnh”. Tuy nhiên, Uông Thạch Sơn, trong ‘Thạch Sơn Y Án đã nhận địnhrằng: “Nếu gặp bệnh thì bất cứ lúc nào cũng có thể chẩn mạch, không cầnchẩn mạch vào lúc sáng sớm mới được”. - Trước khi chẩn mạch, nên để cho người bệnh nghỉ 1 lát cho khíhuyết được điều hòa. - Không nên xem mạch khi người bệnh ăn uống qúa no, đói qúa hoặcmới uống rượu, đi xa đến mà mệt mỏi... - Ngoài ra, ống tay áo người bệnh quá chật, hoàn cảnh chung quanhồn ào... cũng có thể ảnh hưởng đến việc chẩn mạch. 2- Tư Thế Lúc Xem Mạch. - Theo sách Trung Y Chẩn Đoán Học Giảng Nghĩa thì : “Người bệnhnên ngồi thẳng thắn, tự nhiên hoặc nằm ngửa, cánh tay nên duỗi ra 2 bên,bàn tay để ngửa cho huyết mạch lưu thông tốt và không ảnh hưởng đếnmạch”. Sách Y Tông Kim Giám nêu rõ: ”Người bệnh nằm nghiêng thì cánhtay phía dưới đè lên làm mạch không chạy được. Nếu co tay lại thì bàn tay bịbế tắc, mạch không lưu thông. Nếu để xuôi tay thì máu dồn xuống làm mạchbị ứ trệ, nếu giơ tay lên cao thì khí chạy lên mà mạch nhảy. Nếu co cơ thể lạithì khí bị nén mà mạch bị gò bó. Nếu người cử động thì khí bị nhiễu loạn màmạch chạy nhanh...” Thầy thuốc nên ngồi nghiêng đối với người bệnh, dùng tay trái đểchẩn mạch ở tay phải người bệnh và ngược lại dùng tay phải chẩn mạch ởtay trái. 3- Định Hơi Thở Thầy thuốc cần ổn định hơi thở, giữ vững tiêu chuẩn: 1 hơi thở ra, hítvào tương ứng với 4 lần mạch đập. Sau đó, căn cứ vào tiêu chuẩn này, tậptrung chú ý vào các ngón tay đang đặt trên các bộ vị để thăm dò mạch tượngvà số mạch đếm của người bệnh. Do đó, thiên Mạch Yếu Tinh Vi Luận(T.Vấn 17) ghi: “Phương pháp chẩn mạch cốt ở tâm hư tĩnh”. 4- Cách Đặt Tay Chẩn Mạch - Sách Chẩn Gia Khu Yếu trình bày cách đặt tay xem mạch như sau:“Khi đặt ngón tay xuống, đầu tiên đặt ngón tay giữa vào bộ quan (mé trongchỗ xương cao-ngang với lồi xương quay), rồi đặt luôn 2 ngón tay 2 (trỏ) và4 (áp út) phía trước và sau thành 3 bộ mạch. Ngón tay trước (trên) là bộ thốnkhẩu, ngón tay sau (dưới) là bộ xích. Nếu cẳng tay người bệnh dài thì đặtngón tay thưa, nếu cẳng tay ngắn thì đặt các ngón tay khít nhau”. - Sách Trung Y Học Khái Luận nhấn mạnh rằng: “Khi đặt ngón tay(xem mạch) cần phải để đầu ngón tay bằng nhau vì mức độ cảm giác của daở đầu các ngón tay đang xem mạch không giống (nhạy bén) như nhau... vìvậy, khi cần chẩn mạch, nên dùng chỉ nhĩ (chỗ đầu ngón tay nổi lên như sợichỉ) để sờ, ấn”. - Sách Mạch Nghĩa Giản Ma giải thích rõ hơn như sau: “Ba ngón taycủa người ta dài ngắn không bằng nhau, vì vậy phải để 3 đầu ngón tay bằngnhau, đốt ngón này ngang đốt ngón kia mới có thể chẩn mạch được. Nhưngda thịt đầu 3 ngón tay thì ngón trỏ nhạy cảm nhất, ngón giữa da dầy, ngónthứ 4 lại dầy và kém nhậy cảm hơn. Vì vậy, phải dùng cạnh của đầu ngóntay như sợi chỉ, gọi là chỉ mục (mắt của ngón tay) ấn lên sống mạch”. - Sách Trung Y Học Khái Luận còn lưu ý rằng: “Điều quan trọng hơnnữa là không nên dựa vào mạch đập ở đầu ngón tay của mình mà nhận lầmvới mạch đập của người bệnh, vì ở đầu ngón tay của thầy thuốc cũng cóđộng mạch. Điều này cần chú ý trên lâm sàng”. Sau khi đặt tay đúng vị trí và đúng phương pháp, thầy thuốc phải biếtvận dụng năng lực nặng nhẹ và di chuyển ngón tay để thăm dò mạch tượng. Hoạt Bá Nhân, trong sách Chẩn Gia Khu Yếu nêu rõ: “Chẩn mạch có3 điều chủ yếu là Cử, Án và Tầm. Nhẹ tay sờ mạch gọi là Cử, nặng tay chẩnmạch gọi là Án, không nặng không nhẹ, uyển chuyển tìm kiếm gọi là Tầm”. Hiện nay các nhà nghiên cứu mạch học nghiêng về cách sau: + Sơ (Khinh) Án: Bắt đầu đặt (đụng) ngón tay đến mạch của ngườibệnh để chẩn bệnh ở phủ. + Trung Án: Ấn nhẹ tay xuống 1 chút để biết về Vị khí. + Trầm (Trọng) Án: Ấn nặng tay xuống 1 ít để chẩn bệnh ở tạng. Cách chung, khi chẩn (xem) mạch, nên: · Xem chung cả 3 bộ (Tổng Khán) để nhận định về t ình hình chung(thường được dùng nhất). · Xem riêng từng bộ phận (Đơn Kháng) để đánh gía riêng từng cơquan, tạng phủ. Ngoài ra, theo các nhà mạch học thì khi xem mạch còn cần phải chú ýđến 3 yếu tố là Vị Khí, Thần và Căn. 1- Vị Khí: · Thiên Bình Nhân Khí Tượng Luận (T. Vấn 18) ghi: “Có Vị khí thìsống, không có Vị khí thì chết”, vì vậy, mạch lấy Vị khí làm gốc. · Trương Cảnh Nhạc trong chương Mạch Thần (CNT. Thư) đã trìnhbày về Vị khí như sau: Muốn xét diễn tiến của bệnh tốt hoặc xấu nên lấy Vịkhí làm chủ. Cách xét này về vị khí như sau: “Thí dụ, hôm nay mạch cònhò ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
MẠCH HỌC - PHƯƠNG PHÁP CHẨN MẠCH MẠCH HỌCPHƯƠNG PHÁP CHẨN MẠCH 1- Thời Gian Xem Mạch - Thiên Mạch Yếu Tinh Vi Luận (T. Vấn 17) ghi: “Chẩn mạchthường vào lúc sáng sớm, âm khí chưa động, dương khí chưa tán, chưa ănuống gì, kinh mạch chưa đầy, lạc mạch điều hòa, khí huyết chưa loạn,do đó,có thể tìm thấy mạch bệnh”. Tuy nhiên, Uông Thạch Sơn, trong ‘Thạch Sơn Y Án đã nhận địnhrằng: “Nếu gặp bệnh thì bất cứ lúc nào cũng có thể chẩn mạch, không cầnchẩn mạch vào lúc sáng sớm mới được”. - Trước khi chẩn mạch, nên để cho người bệnh nghỉ 1 lát cho khíhuyết được điều hòa. - Không nên xem mạch khi người bệnh ăn uống qúa no, đói qúa hoặcmới uống rượu, đi xa đến mà mệt mỏi... - Ngoài ra, ống tay áo người bệnh quá chật, hoàn cảnh chung quanhồn ào... cũng có thể ảnh hưởng đến việc chẩn mạch. 2- Tư Thế Lúc Xem Mạch. - Theo sách Trung Y Chẩn Đoán Học Giảng Nghĩa thì : “Người bệnhnên ngồi thẳng thắn, tự nhiên hoặc nằm ngửa, cánh tay nên duỗi ra 2 bên,bàn tay để ngửa cho huyết mạch lưu thông tốt và không ảnh hưởng đếnmạch”. Sách Y Tông Kim Giám nêu rõ: ”Người bệnh nằm nghiêng thì cánhtay phía dưới đè lên làm mạch không chạy được. Nếu co tay lại thì bàn tay bịbế tắc, mạch không lưu thông. Nếu để xuôi tay thì máu dồn xuống làm mạchbị ứ trệ, nếu giơ tay lên cao thì khí chạy lên mà mạch nhảy. Nếu co cơ thể lạithì khí bị nén mà mạch bị gò bó. Nếu người cử động thì khí bị nhiễu loạn màmạch chạy nhanh...” Thầy thuốc nên ngồi nghiêng đối với người bệnh, dùng tay trái đểchẩn mạch ở tay phải người bệnh và ngược lại dùng tay phải chẩn mạch ởtay trái. 3- Định Hơi Thở Thầy thuốc cần ổn định hơi thở, giữ vững tiêu chuẩn: 1 hơi thở ra, hítvào tương ứng với 4 lần mạch đập. Sau đó, căn cứ vào tiêu chuẩn này, tậptrung chú ý vào các ngón tay đang đặt trên các bộ vị để thăm dò mạch tượngvà số mạch đếm của người bệnh. Do đó, thiên Mạch Yếu Tinh Vi Luận(T.Vấn 17) ghi: “Phương pháp chẩn mạch cốt ở tâm hư tĩnh”. 4- Cách Đặt Tay Chẩn Mạch - Sách Chẩn Gia Khu Yếu trình bày cách đặt tay xem mạch như sau:“Khi đặt ngón tay xuống, đầu tiên đặt ngón tay giữa vào bộ quan (mé trongchỗ xương cao-ngang với lồi xương quay), rồi đặt luôn 2 ngón tay 2 (trỏ) và4 (áp út) phía trước và sau thành 3 bộ mạch. Ngón tay trước (trên) là bộ thốnkhẩu, ngón tay sau (dưới) là bộ xích. Nếu cẳng tay người bệnh dài thì đặtngón tay thưa, nếu cẳng tay ngắn thì đặt các ngón tay khít nhau”. - Sách Trung Y Học Khái Luận nhấn mạnh rằng: “Khi đặt ngón tay(xem mạch) cần phải để đầu ngón tay bằng nhau vì mức độ cảm giác của daở đầu các ngón tay đang xem mạch không giống (nhạy bén) như nhau... vìvậy, khi cần chẩn mạch, nên dùng chỉ nhĩ (chỗ đầu ngón tay nổi lên như sợichỉ) để sờ, ấn”. - Sách Mạch Nghĩa Giản Ma giải thích rõ hơn như sau: “Ba ngón taycủa người ta dài ngắn không bằng nhau, vì vậy phải để 3 đầu ngón tay bằngnhau, đốt ngón này ngang đốt ngón kia mới có thể chẩn mạch được. Nhưngda thịt đầu 3 ngón tay thì ngón trỏ nhạy cảm nhất, ngón giữa da dầy, ngónthứ 4 lại dầy và kém nhậy cảm hơn. Vì vậy, phải dùng cạnh của đầu ngóntay như sợi chỉ, gọi là chỉ mục (mắt của ngón tay) ấn lên sống mạch”. - Sách Trung Y Học Khái Luận còn lưu ý rằng: “Điều quan trọng hơnnữa là không nên dựa vào mạch đập ở đầu ngón tay của mình mà nhận lầmvới mạch đập của người bệnh, vì ở đầu ngón tay của thầy thuốc cũng cóđộng mạch. Điều này cần chú ý trên lâm sàng”. Sau khi đặt tay đúng vị trí và đúng phương pháp, thầy thuốc phải biếtvận dụng năng lực nặng nhẹ và di chuyển ngón tay để thăm dò mạch tượng. Hoạt Bá Nhân, trong sách Chẩn Gia Khu Yếu nêu rõ: “Chẩn mạch có3 điều chủ yếu là Cử, Án và Tầm. Nhẹ tay sờ mạch gọi là Cử, nặng tay chẩnmạch gọi là Án, không nặng không nhẹ, uyển chuyển tìm kiếm gọi là Tầm”. Hiện nay các nhà nghiên cứu mạch học nghiêng về cách sau: + Sơ (Khinh) Án: Bắt đầu đặt (đụng) ngón tay đến mạch của ngườibệnh để chẩn bệnh ở phủ. + Trung Án: Ấn nhẹ tay xuống 1 chút để biết về Vị khí. + Trầm (Trọng) Án: Ấn nặng tay xuống 1 ít để chẩn bệnh ở tạng. Cách chung, khi chẩn (xem) mạch, nên: · Xem chung cả 3 bộ (Tổng Khán) để nhận định về t ình hình chung(thường được dùng nhất). · Xem riêng từng bộ phận (Đơn Kháng) để đánh gía riêng từng cơquan, tạng phủ. Ngoài ra, theo các nhà mạch học thì khi xem mạch còn cần phải chú ýđến 3 yếu tố là Vị Khí, Thần và Căn. 1- Vị Khí: · Thiên Bình Nhân Khí Tượng Luận (T. Vấn 18) ghi: “Có Vị khí thìsống, không có Vị khí thì chết”, vì vậy, mạch lấy Vị khí làm gốc. · Trương Cảnh Nhạc trong chương Mạch Thần (CNT. Thư) đã trìnhbày về Vị khí như sau: Muốn xét diễn tiến của bệnh tốt hoặc xấu nên lấy Vịkhí làm chủ. Cách xét này về vị khí như sau: “Thí dụ, hôm nay mạch cònhò ...
Tài liệu có liên quan:
-
thường thức bảo vệ sức khỏe mùa đông: phần 1 - nxb quân đội nhân dân
111 trang 313 0 0 -
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 242 0 0 -
6 trang 192 0 0
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 186 0 0 -
Một số Bệnh Lý Thần Kinh Thường Gặp
7 trang 185 0 0 -
120 trang 178 0 0
-
Đề tài tiểu luận: Tổng quan về cây thuốc có tác dụng hỗ trợ điều trị ho
83 trang 172 0 0 -
Tài liệu học tập Bệnh học nội khoa Y học cổ truyền
1503 trang 160 5 0 -
Bài tiểu luận Triết học: Học thuyết âm dương, ngũ hành và vận dụng trong y, dược học cổ truyền
18 trang 134 0 0 -
Một số lưu ý cho bệnh nhân Đái tháo đường
3 trang 133 0 0