Danh mục tài liệu

Một số biện pháp chăm sóc và bảo vệ lúa mùa

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 133.66 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Thời tiết vụ mùa năm 2007 diễn ra tương đối phức tạp, đầu vụ rất nóng lại ít mưa. Theo dự báo của khí tượng thuỷ văn lượng mưa dồn vào vụ mùa sẽ rất lớn. Theo kinh nghiệm cổ truyền xem thiên tượng sáng 5/5 âm lịch năm nay, trời nhiều mây đen nặng ở chân trời, nên dự báo khả năng có "bão nước".
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một số biện pháp chăm sóc và bảo vệ lúa mùa Một số biện pháp chăm sóc và bảo vệ lúa mùa Nguồn: khuyennongvn.gov.vn Thời tiết vụ mùa năm 2007 diễn ra tương đối phức tạp, đầu vụ rất nóng lạiít mưa. Theo dự báo của khí tượng thuỷ văn lượng mưa dồn vào vụ mùa sẽ rất lớn.Theo kinh nghiệm cổ truyền xem thiên tượng sáng 5/5 âm lịch năm nay, trời nhiềumây đen nặng ở chân trời, nên dự báo khả năng có bão nước. Theo dự tính, lượng mưa năm nay nhiều hơn trung bình nhiều năm, có thểtập trung vào cuối mùa hè, đầu mùa thu. Có thể mưa lớn diễn ra khi vừa cấy xonglúa mùa đại trà, nên chủ động mạ dự phòng cấy dâm dầy ở chân ruộng vàn, vàncao. Năm nay do đề phòng mưa lớn nhiều địa phương đã gieo cấy (trà chính vụ vàmùa muộn) sớm hơn cùng kỳ nhiều năm. Nếu lúa bị ngập úng, sẽ kéo dài thời gianphục hồi sau khi bị ngập. Do vậy để lúa sớm phục hồi bộ rễ bị hại, nên dùng chếphẩm Pennắc P kết hợp với phân bón lá Đầu trâu, Komic, YOGEN, K-H, phunngay sau khi lá lúa rãi được nước. Để giúp cây lúa sinh trưởng và phát triển tốt giai đoạn cuối vụ, giành năngsuất lúa cao, cần áp dụng tốt một số biện pháp chăm sóc và bảo vệ như sau: 1. Tỉa dặm:Để có đủ tiền đề dành năng suất cao, sau cấy những ruộngnước lớn, bị úng ngập hay có ốc bươu vàng phá hại mất khoảng, cần tranh thủ dặmsớm cho đông đặc mật độ và ruộng lúa phát triển đồng đều. 2. Điều tiết nước: Nước rất quan trọng đối với cây lúa nhất nước, nên từng giai đoạn sinhtrưởng của cây cần điều tiết nước hợp lý: - Theo chế độ nông - lộ - phơi giữ nước nông trong giai đoạn lúa đẻnhánh, nếu quá cạn nước hoặc nước quá lớn sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến quá trìnhđẻ nhánh. Nếu đẻ nhánh muộn, đẻ kéo dài tỷ lệ dảnh vô hiệu sẽ cao, vừa tốn dinhdưỡng vừa gây bệnh tật cho gốc lúa. - Khi khóm lúa đã đủ số dảnh hữu hiệu cần thiết, nên tạo điều kiện cho câylúa tập trung dinh dưỡng cho các dảnh lúa đã đẻ làm tăng tỷ lệ dảnh hữu hiệu,bông to, nhiều hạt và giảm tỷ lệ dảnh vô hiệu hạn chế tác hại của sâu bệnh cuối vụ,bằng cách tháo cạn nước phơi lộ đất ở các chân đất vàn, vàn cao ít chua, hoặc ởnhững ruộng khó tháo cạn nước thì nên cho nước lớn cao 7-10 cm để đặt vòngcho lúa. - Giai đoạn đứng cái nên rút nước phơi mất lấm, để hạn 5-7 ngày, ông chata dặn lại lúa xuân ướt áo, lúa mùa ráo gốc để giúp cây lúa chống đổ tốt ở vụmùa. - Sau đó tiếp tục giữ nước nông thường xuyên trong giai đoạn lúa có đòngvà trổ bông. - Thời kỳ lúa làm đòng, trổ bông đến chín sáp tuyệt đối không để ruộng hạnsẽ ảnh hưởng xấu đến quá trình thụ tinh thụ phấn và chín của lúa. Nếu hạn sẽ bịlép lửng nhiều, giảm năng suất rất lớn. 3. Bón phân và chăm sóc: - Vụ mùa trời nhiều mưa, tất nhiên sẽ thiếu nắng cây trồng sẽ vươn cao,mỏng lá. Đây là những nguyên nhân gây phát sinh sâu bệnh nhiều. Giá phân bóncác loại đều tăng, phân bón Đa nguyên tố NPK chuyên dùng không đáp ứng nhucầu của sản xuất…càng tạo cơ hội cho nông dân bón phân mất cân đối (Thừa đạm,thiếu kaly và thiếu lân). Gặp mưa gió nhiều khiến sâu bệnh, đặc biệt bệnh bạc láphá hại. Do vậy việc thâm canh phải đảm bảo yêu cầu: bón phân cân đối và lótsâu trước bừa cấy, thúc sớm ngay sau cấy 8-10 ngày hết cả đạm và kali. Mặtkhác tăng kali, giảm đạm, không bón đạm muộn, không bón đạm lai rai cho cácgiống lúa, đặc biệt các giống lúa lai Bắc ưu 253, 903... Các giống chất lượng BT7,Thiên Hương, LT3, T10..., và các ruộng lúa thuần Trung quốc lá có màu xanhvàng hoặc xanh vàng sáng là đẹp, đủ dinh dưỡng. - Chỉ bón đạm bổ sung nuôi đòng cho các chân ruộng lúa thuần đói ăn lávàng nhiều ở các chân ruộng rão nước đất pha cát, hoặc chưa bón đủ lượng đạmcần thiết,với mức 0,5 kg urê +1-2 kg kaly/sào khi ruộng lúa có đủ nước. Tốt nhấtdùng 30- 50 kg/ sào phân bắc đã ủ mục để bón thay thế lượng đạm và kali trên. - Chú trọng sử dụng phân kaly bón tăng cao hơn vụ xuân cho các giống lúalai và lúa thuần Trung Quốc để giúp cây lúa cứng cáp, tăng số hạt/bông và tăngtrọng lượng hạt, đồng thời tăng cường sức chống chịu với điều kiện bất thuận củangoại cảnh, với sâu bệnh. Tính theo thương phẩm nên bón theo tỷ lệ sau: 1đạm +2lân +1kaly. - Thời kỳ bón kaly tốt nhất là thúc đẻ và thúc vào trước giai đoạn phân hoáđòng từ 7-10 ngày (sau đẻ rộ - kết thúc đẻ nhánh). Nếu bón đơn với lượng bónkaly cao, nên chia làm 2 giai đoạn như sau: Lót sâu lúc bừa hoặc trứơc bừa toàn bộphân chuồng + toàn bộ lân + 50-70 % đạm + 50% kaly, thúc đẻ sớm hết cả đạm vàkaly. Trường hợp nếu chưa lót kaly, thúc đẻ sớm sau cấy 7-10 ngày hết đạm + 50% kaly, sau đẻ rộ bón hết kaly (sau cấy từ 17-20 ngày). - Không nên bón bổ xung các loại phân bón có chứa đạm vô cơ như NPK,NK… cho các ruộng lúa lá xanh hoặc xanh vàng sáng đẹp, tránh thừa đạm giaiđoạn cuối vụ cây lúa sẽ đẻ lai nhai, tỷ lệ vô hiệu cao và làm cho lá lúa xanh đậmcuối vụ, dễ bị sâu bệnh, nhất là bệnh bạc lá đối với các giống lúa lai. - Từ khi lúa đứ ...