Danh mục tài liệu

Nghiên cứu xây dựng quy trình phòng trừ tổng hợp sâu bệnh hại và thâm canh tổng hợp cây mía đường ở huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 663.64 KB      Lượt xem: 20      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Đề tài được thực hiện nhằm nghiên cứu về quy trình quản lý dịch hại tổng hợp và thâm canh trên cây mía ở Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Nghiên cứu về quy trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) và thâm canh trên cây mía được thực hiện tại xã Hiệp Hưng, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang từ tháng 9 năm 2009 đến tháng 12 năm 2011. Kết quả cho thấy phương pháp trồng theo kiểu quincunx với khoảng cách hàng 1.2m cho sự tăng trưởng của cây mía.


Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghiên cứu xây dựng quy trình phòng trừ tổng hợp sâu bệnh hại và thâm canh tổng hợp cây mía đường ở huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ nhất NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG QUY TRÌNH PHÒNG TRỪ TỔNG HỢP SÂU BỆNH HẠI VÀ THÂM CANH TỔNG HỢP CÂY MÍA ĐƯỜNG Ở HUYỆN PHỤNG HIỆP, TỈNH HẬU GIANG Trần Thị Bé Hồng, Võ Thị Bích Chi, Nguyễn Thị Phương Chi, Nguyễn Thị Nghĩa, Nguyễn Thị Nhàn, Nguyễn Thị Xuân, Hồ Thanh Nhàn, Mai Thị Út Dứt và Nguyễn Thị Lộc Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long SUMMARY Study on process of integrated pest management and intensive farming on sugarcane in Phung Hiep, Hau Giang province Study on process of Integrated Pest Management (IPM) and intensive farming on sugarcane were conducted in Hiep Hung commune, Phung Hiep district, Hau Giang province from September 2009 to December 2011. The results showed that the planting method in quincunx style with row distance of 1.2 m for sugarcane’s growth in Phung Hiep condition helped farmers to cut down expenses for variety of sugarcane, push up height of sugarcane, raise its density, and increase its yield. The appropriate fertilizer formula for one hectare of sugarcane per crop is 280kg N - 167kg P2O5 - 180kg K2O + 2,333kg organic fertilizer HAC. Bio - insecticides and chemical insecticides were found, which gave high efficiency against main pests on sugarcane’s field such as Top borer, Scirpophaga nivella, Yellow headed planthopper, Eoeurysa flavocapitata Muir and Sheath bligh disease. Applying the process of IPM and intensive farming on sugarcane on model field increased the profitability by 39.4% compared to control field planted according to farmer’s previous behaviour practice. Keywords: Bio-insecticide, IPM, intensive farming, organic fertiliser, process, sugarcane. I. ĐẶT VẤN ĐỀ * Mía đường có tên khoa học là Saccharum officinarum L. thuộc họ Monocotyledonae: Poaceae. Mía đường cung cấp hơn 50% nhu cầu đường trên thế giới (Monique Hunziker và ctv., 2009). Trên thế giới cây mía chiếm diện tích 20,42 triệu hecta với tổng sản lượng là 1.333 triệu tấn. Ở nước ta nghề trồng mía đã có từ lâu đời, cây mía được trồng rộng khắp trong cả nước, trải dài từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Nhưng do nhiều nguyên nhân như kỹ thuật canh tác, giống, quy hoạch, đầu tư,... nên trước năm 1994, mỗi năm chúng ta phải nhập trên 200.000 tấn đường, từ sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng quan về phát triển ngành mía đường Việt Nam và chương trình 01 triệu tấn đường (vào ngày 13/10/1994). Từ đó ngành mía đường có tốc độ phát triển mạnh. Năm 1993 cả nước có 147.800ha đất trồng mía, sản lượng 6.335.000 tấn mía cây, năng suất bình quân 42,86 tấn/ha (Lê Song Dự, Nguyễn Thị Quý Mùi, 1997). Năm 2000, sản lượng đường cả nước đạt hơn một triệu tấn. Người phản biện: ThS. Nguyễn Thị Phong Lan. Hậu Giang là tỉnh có diện tích và sản lượng mía đứng hàng đầu ở đồng bằng sông Cửu Long, là nguồn thu nhập chính của hàng ngàn hộ nông dân trong tỉnh. Song, trong những năm qua diện tích, năng suất và thu nhập của người trồng mía không ổn định, ngoài yếu tố tác động của quy luật cung cầu và giá đường thế giới, kỹ thuật canh tác của phần đông nông dân còn hạn chế, chi phí đầu tư cao, năng suất, chất lượng chưa tương xứng, làm cho giá thành sản xuất mía nguyên liệu cao, khó cạnh tranh với đường của khu vực và thế giới (Nguyễn Kim Quyên et al., 2011). Nông dân ở Hậu Giang có kinh nghiệm trồng mía từ 40 - 50 năm nay. Tuy nhiên, với phương thức sản xuất truyền thống lạc hậu, diện tích trồng manh mún, năng suất thấp, chất lượng mía chưa cao, từ đó hiệu quả kinh tế không ổn định. Trong thời kỳ hội nhập WTO, việc cạnh tranh các sản phẩm nông nghiệp ngày càng gay gắt. Do vậy, nông dân sẽ là người gặp nhiều khó khăn và thiệt thòi nhất, trong đó có không ít nông hộ trồng mía ở Hậu Giang. Trong các yêu cầu đặt ra cho người nông dân trong quá trình hội nhập thì vấn đề quan trọng phải nói đến là tích cực ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, nhằm nâng cao năng suất, chất 1061 VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM lượng góp phần hạ giá thành sản phẩm để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất (Lê Văn Tam, 2006). Tuy nhiên, cho tới nay chưa có quy trình quản lý sâu bệnh hại và thâm canh tổng hợp nào được nghiên cứu và ứng dụng tại vùng mía đường nguyên liệu của tỉnh Hậu Giang nói riêng và đồng bằng sông Cửu Long nói chung. Thêm vào đó, trong bài phát biểu tại hội nghị doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam khi gia nhập WTO cho thấy chương trình mía đường được chọn là chương trình khởi đầu để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp. Ngành mía đường được giao “không phải là ngành kinh tế vì mục đích lợi nhuận tối đa mà là ngành kinh tế xã hội”. Hơn nữa, Theo Quyết định số 26/2007/QĐTTg về Quy hoạch phát triển mía đường đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 cho thấy quan điểm nêu rõ trong thời gian tới phát triển sản xuất mía đường phải đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội và bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái, phù hợp với quy hoạch chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. Sản xuất mía đường do vậy phải phát triển đồng bộ từ sản xuất mía nguyên liệu, nhà máy chế biến, sản xuất các sản phẩm sau đường đến lưu thông và tiêu thụ sản phẩm; phải gắn lợi ích giữa nhà chế biến và người sản xuất nguyên liệu, thúc đẩy xây dựng nông thôn mới. Với thực trạng sản xuất mía và nhu cầu cấp bách như trên, từ 9/2009 - 12/2011 chúng tôi đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu ứng dụng các biện pháp quản lý dịch hại và thâm canh tổng hợp nhằm phát triển vùng sản xuất mía đường nguyên liệu của tỉnh Hậu Giang” nhằm tăng năng suất, chất lượng mía đường, nâng cao hiệu quả kinh tế cho người sản xuất và góp phần phát triển bền vững vùng mía đường nguyên liệu của tỉnh Hậu Giang nói riêng và đồng bằng sông Cửu Long nói chung. II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Nghiên cứu xây dựng quy trình quản lý sâu bệnh hại và thâ ...

Tài liệu có liên quan: