Danh mục tài liệu

Phòng bệnh viêm tiểu phế quản ở trẻ em

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 127.19 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Viêm tiểu phế quản (TPQ) là bệnh hô hấp cấp tính, rất hay gặp ở trẻ còn bú. Nếu bệnh được phát hiện và điều trị sớm sẽ cho kết quả tốt, những trường hợp nặng gây suy hô hấp có thể bị tử vong. Chính vì vậy, các bậc cha mẹ cần có những hiểu biết về bệnh để chăm sóc trẻ được tốt hơn. Những biểu hiện khi trẻ bị viêm TPQ Triệu chứng ban đầu thường thấy nhất là tình trạng trẻ ho, chảy nước mũi trong, sốt vừa hoặc cao. Sau từ 3 – 5...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phòng bệnh viêm tiểu phế quản ở trẻ em Phòng bệnh viêm tiểu phế quản ở trẻ em Cho trẻ thở khí dung. Viêm tiểu phế quản (TPQ) là bệnh hô hấp cấp tính, rất hay gặp ở trẻcòn bú. Nếu bệnh được phát hiện và điều trị sớm sẽ cho kết quả tốt, nhữngtrường hợp nặng gây suy hô hấp có thể bị tử vong. Chính vì vậy, các bậc chamẹ cần có những hiểu biết về bệnh để chăm sóc trẻ được tốt hơn. Những biểu hiện khi trẻ bị viêm TPQ Triệu chứng ban đầu thường thấy nhất là tình trạng trẻ ho, chảy nước mũitrong, sốt vừa hoặc cao. Sau từ 3 – 5 ngày, trẻ ho ngày một nhiều, xuất hiện thởkhó, thở rít. Những trường hợp nặng thì tím tái, thậm chí ngừng thở. Khi thămkhám thường thấy nhịp thở của trẻ nhanh, sốt vừa, xuất hiện các cơn co kéo hôhấp, lồng ngực bị rút lõm, trẻ thở rên. Tiếng thở có thể nghe ran rít, ran ngáy,thông khí phổi kém. Các tiêu chuẩn lâm sàng khác cho thấy trong khí máu PaO2 giảm, PaCO2tăng, có nhiễm toan hô hấp kèm theo, đây là những chỉ số đánh giá mức độ nặngcủa bệnh. Để phát hiện chính xác loại virus gây bệnh, cần phải phân lập hoặc nuôicấy virus, bằng cách lấy dịch tiết khí phế quản hoặc trong tổ chức phổi hoặc phảnứng huyết thanh. Cần lưu ý: khi chẩn đoán bệnh cần phân biệt với các triệu chứng của viêmphế quản, viêm phổi do vi khuẩn hoặc virus, bệnh mềm sụn thanh khí quản, bệnhmạch máu, các khối u (chèn ép khí phế quản từ ngoài vào) hoặc tình trạng u mạchmáu, hẹp khí quản gây tắc nghẽn đường hô hấp ở trong. Các bệnh như: trào ngượcdạ dày thực quản, dị vật đường thở, khó thở thứ phát sau nhiễm virus... cũng cầnđược phân biệt với viêm TPQ ở trẻ em. Vì sao trẻ bị viêm TPQ? Tác nhân làm cho trẻ bị viêm TPQ thường là do các virus như: virus hợpbào hô hấp (VRS), chiếm 30 - 50% các trường hợp mắc bệnh. Virus cúm và á cúmcũng gây bệnh cho khoảng 25% số trẻ bị viêm TPQ. Ngoài ra phải kể đếnadenovirus với 10% số mắc. Nếu trẻ sống trong vùng có dịch cúm hay viêm đường hô hấp trên (do virushợp bào) thì tỷ lệ bị lây nhiễm rất cao, do sức đề kháng ở cơ thể trẻ còn quá yếu,nhất là trẻ tuổi bú mẹ mà không được bú đầy đủ sữa mẹ. Những trẻ từng bị ốm donhiễm virus trước đó như: viêm mũi họng, viêm amiđan, viêm VA... đều có nguycơ dễ nhiễm bệnh nếu không được chăm sóc tốt. Các trường hợp trẻ bị bệnh timbẩm sinh, sống trong môi trường hút thuốc lá thụ động, bị bệnh phổi bẩm sinhnhư: loạn sản phổi, mucoviscidose hay bị suy giảm miễn dịch đều có nguy cơ caomắc phải viêm TPQ. Các biến chứng thường gặp Tất cả các trường hợp viêm TPQ ở trẻ nếu không được chẩn đoán bệnh vàđiều trị tốt sẽ dẫn đến những biến chứng nguy hiểm như: rối loạn chức năng hôhấp, xuất hiện từng cơn khó thở ra tái phát, viêm TPQ lan tỏa. Nghiêm trọng hơnsẽ làm trẻ bị suy hô hấp cấp, tràn khí màng phổi, viêm phổi – trung thất, xẹp phổivà thậm chí tử vong. Xử trí và phòng bệnh thế nào? Đối với các thể thông thường, không có suy hô hấp thì ngay khi vào việncác bác sĩ sẽ tiến hành hút thông đường thở, giải phóng các chất xuất tiết. Dùngkhí dung ẩm thuốc giãn phế quản có tác dụng nhanh như: ventolin, bricanyl,salbutamol. Kết hợp với vật lý liệu pháp hô hấp, vỗ rung, hút đờm. Những trẻ sốtcao, nôn, thở nhanh phải bù đủ dịch và điện giải theo nhu cầu cơ thể trẻ. Cần chotrẻ dinh dưỡng đủ chất, cân nhắc cẩn thận trước khi sử dụng kháng sinh. Đối với những trường hợp nặng có suy hô hấp thì phải sử dụng liệu phápoxy, hút thông đường hô hấp trên, dùng thuốc giãn phế quản đường khí dung,truyền nước, điện giải theo nhu cầu cơ thể bù lượng thiếu hụt. Nếu những biệnpháp trên không cải thiện tình trạng suy hô hấp thì phải tiến hành đặt nội khí quảnvà các biện pháp hô hấp hỗ trợ khác. Chỉ sử dụng kháng sinh khi có biểu hiệnviêm nhiễm thứ phát, không nên dùng steriod cho trẻ. Muốn phòng bệnh hiệu quả, các bà mẹ hãy cho trẻ bú sữa mẹ đến 2 tuổi,không để trẻ bị lạnh, giữ cho môi trường sống của trẻ được trong lành, không chotrẻ tiếp xúc với khói bếp than, khói thuốc lá. Khi đi ra đường nên giữ ấm và bảo vệđường hô hấp trên cho trẻ, có thể sử dụng nước muối sinh lý 0,9% nhỏ vào mắt,mũi trẻ sau khi đi chơi về. Những trẻ bị các bệnh tim, phổi bẩm sinh càng đặc biệtlưu ý. Nếu trẻ có những biểu hiện bệnh như: sốt, ho, khó thở cần đưa ngay trẻ đếncác chuyên khoa hô hấp để được điều trị đúng ...