QUÁ TRÌNH KHẨN HOANG LẬP LÀNG Ở AN GIANG (THẾ KỈ XVII – XIX)
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 189.63 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Quá trình khẩn hoang của chúa Nguyễn ở An GiangĐến đầu thế kỉ XVII, do chiến tranh giữa ha tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn, do nạn sưu cao thuế nặng, nạn bắt phu bắt lính, do sự bóc lột tàn bạo của giai cấp địa chủ, do điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, lưu dân người Việt, phần lớn là những người nông dân nghèo khổ, từ miền Trung vượt qua bao khó khăn, nguy hiểm vào vùng đất An Giang để khai hoang lập nghiệp. Lúc đầu, cư dân đi lẻ tẻ, tự phát. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
QUÁ TRÌNH KHẨN HOANG LẬP LÀNG Ở AN GIANG (THẾ KỈ XVII – XIX)QUÁ TRÌNH KHẨN HOANG LẬP LÀNG Ở AN GIANG (THẾ KỈ XVII – XIX)Quá trình khẩn hoang của chúa Nguyễn ở An GiangĐến đầu thế kỉ XVII, do chiến tranh giữa ha tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn,do nạn sưu cao thuế nặng, nạn bắt phu bắt lính, do sự bóc lột tàn bạo của giai cấpđịa chủ, do điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, lưu dân người Việt, phần lớn lànhững người nông dân nghèo khổ, từ miền Trung vượt qua bao khó khăn, nguyhiểm vào vùng đất An Giang để khai hoang lập nghiệp. Lúc đầu, cư dân đi lẻ tẻ, tựphát.Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược, lập phủ Gia Định gồm hai huyệnPhước Long (Đồng Nai) và Tân Bình (Sài Gòn). Năm 1700, Nguyễn Hữu Cảnh lầnđầu tiên đến cù lao Cây Sao (nay là cù lao Ông Chưởng, huyện Chợ Mới), mở rathời kì mới cho việc khẩn hoang vùng đất An Giang.Trích:Nguyễn Hữu Cảnh (Nguyễn Hữu Kính) sinh năm 1650 tại làng Gia Miêu, huyện TốngSơn, tỉnh Thanh Hoá, là con thứ của Nguyễn Hữu Dật và là em ruột của Thống suấtNguyễn Hữu Hào. Năm 1692, ông làm Tổng binh đánh dẹp giặc Bà Tranh tại ThuậnThành (nay là tỉnh Bình Thuận). Sau đó, Nguyễn Hữu Cảnh được cử làm Trấn thủ dinhBình Khang (tỉnh Kháng Hoà). Năm 1698, làm Thống suất kinh lược đất Gia Định, lậphai huyện Tân Bình và Phước Long. Năm 1700, trên đường đánh dẹp quân Nặc Thu, lúctrở về ông dừng quân tại cù lao Cây Sao (huyện Chợ Mới). Ông mất tại Sầm Giang (MỹTho) trên đường rút quân về Gia Định.Từ năm 1705 – 1757, tình hình Chân Lạp phức tạp, nhiều cuộc tranh giành ngôi vuadiễn ra. Nặc Tôn dựa vào chú Nguyễn để nắm lại quyền lực ở Chân Lạp. Để tạ ơnchuá Nguyễn, năm 1757, Nặc Tôn hiến đất Tầm Phong Lăng cho chúa Nguyễn.Chuá Nguyễn cử Nguyễn Cư Trinh và Trương Phước Du vào tiếp quản, đặt làm bađạo: Đông Khẩu (tức Sa Đéc), Tân Châu và Châu Đốc. Trên thực tế, lúc này vùngđất An Giang, còn nhiều đất hoang, cư dân Việt đến cư ngụ chủ yếu dọc sông Tiền,sông Hậu và xung quanh các đồn bảo của chính quyền phong kiến để được che chở,làm ăn.Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, nhiều chỉ dụ cấm truyền bá đạo Thiên Chúagay gắt. Một số giáo dân, giáo sĩ từ miền Trung vào vùng đất An Giang lánh nạn vàkhẩn hoang tại Cái Đôi (xã Hoà Bình, huyện Chợ Mới), cù lao Giêng (xã Tấn Mỹ,huyện Chợ Mới) vào năm 1778 và lập được 4 thôn Toàn Đức, Phú Hưng, Mỹ Hưng,Toàn Đức Đông. Ông Dương Văn Hoá lập thôn Bình Lâm (xã Bình Thuỷ, ChâuPhú) năm 1783, ông Lê Công Thoàn lập ấp Châu Long (thị xã Châu Đốc) vào cuốithế kỉ XVIII...Nhìn chung, công cuộc khẩn hoang ở An Giang vào thể kỉ XVII còn nhiều hạn chếdo chiến tranh và dịch bệnh, nhưng tạo tiền đề cho công cuộc khẩn hoang lập làngquy mô hơn dưới triều Nguyễn.Chính sách khẩn hoang lập làng ở An Giang vào đầu thế kỉ XIXNăm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua lấy hiệu Gia Long, đã đưa ra nhiều biện phápkhẩn hoang ở vùng biên giới An Giang như: chiêu mộ dân cường tráng, lập thànhcơ đội, cho tự chọn đất hoang và vay thóc giống.Năm 1818, trấn thủ trấn Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu) tiếnhàng đào kênh Đông Xuyên, nối liền rạch Long Xuyên đến Rạch Giá. Sau khi đàoxong kênh được đặt tên là Thoại Hà và dựng bia lập làng Thoại Sơn (năm 1822).Đầu thế kỉ XIX, tình hình biên giới giữa ta và Chân Lạp (Cam-pu-chia) phức tạp.Dân cư ở vùng đất An Giang còn thưa thớt. Nhằm giải quyết việc quốc phòng, vuaGia Long chỉ dụ cho Nguyễn Văn Thoại xúc tiến đào kênh Vĩnh Tế.Sau khi kênh hoàn thành, Nguyễn Văn Thoại chiêu mộ lưu dân đến lập được 20thôn và đắp con lộ nối liền Châu Đốc đến núi Sam.Tính đến năm 1819, ở hữu ngạn sông Hậu nhiều thôn mới thành lập: Bình ThạnhTây, Bình Trung, Bình Lâm (Châu Phú), Bình Đức, Mỹ Phước, Mỹ Thạnh (thànhphố Long Xuyên). Nhiều thôn dọc kênh Vĩnh Tế hình thành: Vĩnh Tế, Nhơn Hưng,An Quới, Thanh Nhơn, Vĩnh Bảo, Long Thạnh, Toàn Thạnh, Vĩnh Gia, Vĩnh Lạc.Dưới triều vua Gia Long, ở An Giang thực hiện các công trình đào kênh góp phầnthúc đẩy việc khai khẩn đất đai và lập thôn làng.Chính sách đồn điền của triều Nguyễn (1820 – 1867)Năm 1821, Nguyễn Văn Thoại đã chiêu mộ nhiều lưu dân đến An Giang lập nghiệp.Năm 1828, hình thức đồn điền được tái lập ở An Giang với nhiều chính sách tíchcực như miễn thuế đinh, thuế điền 3 năm, cho mượn vốn và hỗ trợ công cụ... NgườiChăm đến định cư ở vùng Châu Đốc và lập được 7 làng: Châu Giang (xã Phú Hiệp,Phú Tân), Katambong (xã Khánh Hoà, Châu Phú), Phũm Soài (xã Châu Phong,Tân Châu), La Ma (xã Vĩnh Trường, An Phú), Ka Côi (xã Nhơn HộI, An Phú, KaCôi Ki (xã Quốc Thái, An Phú), Sa Bâu (xã Khánh Bình, An Phú). Đến năm 1845,linh mục Jacques Dương lập họ đạo Năng Gù (xã An Hoà, Châu Thành), khai khẩnđất đai.Đến thời vua Tự Đức, Kinh lược sứ Nam Kì Nguyễn Tri Phương đề ra kế hoạchkhẩn hoang, trong đó đáng chú ý thành phần khẩn hoang có cả những tù nhân. Họđược hỗ trợ lương thực, nông cụ và trâu bò để cày cấy. Tính đến năm 1853, NguyễnTri Phương lập được 23 ấp ở An Giang.Năm 1851, giáo phái Bửu Sơn Kì Hương c ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
QUÁ TRÌNH KHẨN HOANG LẬP LÀNG Ở AN GIANG (THẾ KỈ XVII – XIX)QUÁ TRÌNH KHẨN HOANG LẬP LÀNG Ở AN GIANG (THẾ KỈ XVII – XIX)Quá trình khẩn hoang của chúa Nguyễn ở An GiangĐến đầu thế kỉ XVII, do chiến tranh giữa ha tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn,do nạn sưu cao thuế nặng, nạn bắt phu bắt lính, do sự bóc lột tàn bạo của giai cấpđịa chủ, do điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, lưu dân người Việt, phần lớn lànhững người nông dân nghèo khổ, từ miền Trung vượt qua bao khó khăn, nguyhiểm vào vùng đất An Giang để khai hoang lập nghiệp. Lúc đầu, cư dân đi lẻ tẻ, tựphát.Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược, lập phủ Gia Định gồm hai huyệnPhước Long (Đồng Nai) và Tân Bình (Sài Gòn). Năm 1700, Nguyễn Hữu Cảnh lầnđầu tiên đến cù lao Cây Sao (nay là cù lao Ông Chưởng, huyện Chợ Mới), mở rathời kì mới cho việc khẩn hoang vùng đất An Giang.Trích:Nguyễn Hữu Cảnh (Nguyễn Hữu Kính) sinh năm 1650 tại làng Gia Miêu, huyện TốngSơn, tỉnh Thanh Hoá, là con thứ của Nguyễn Hữu Dật và là em ruột của Thống suấtNguyễn Hữu Hào. Năm 1692, ông làm Tổng binh đánh dẹp giặc Bà Tranh tại ThuậnThành (nay là tỉnh Bình Thuận). Sau đó, Nguyễn Hữu Cảnh được cử làm Trấn thủ dinhBình Khang (tỉnh Kháng Hoà). Năm 1698, làm Thống suất kinh lược đất Gia Định, lậphai huyện Tân Bình và Phước Long. Năm 1700, trên đường đánh dẹp quân Nặc Thu, lúctrở về ông dừng quân tại cù lao Cây Sao (huyện Chợ Mới). Ông mất tại Sầm Giang (MỹTho) trên đường rút quân về Gia Định.Từ năm 1705 – 1757, tình hình Chân Lạp phức tạp, nhiều cuộc tranh giành ngôi vuadiễn ra. Nặc Tôn dựa vào chú Nguyễn để nắm lại quyền lực ở Chân Lạp. Để tạ ơnchuá Nguyễn, năm 1757, Nặc Tôn hiến đất Tầm Phong Lăng cho chúa Nguyễn.Chuá Nguyễn cử Nguyễn Cư Trinh và Trương Phước Du vào tiếp quản, đặt làm bađạo: Đông Khẩu (tức Sa Đéc), Tân Châu và Châu Đốc. Trên thực tế, lúc này vùngđất An Giang, còn nhiều đất hoang, cư dân Việt đến cư ngụ chủ yếu dọc sông Tiền,sông Hậu và xung quanh các đồn bảo của chính quyền phong kiến để được che chở,làm ăn.Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, nhiều chỉ dụ cấm truyền bá đạo Thiên Chúagay gắt. Một số giáo dân, giáo sĩ từ miền Trung vào vùng đất An Giang lánh nạn vàkhẩn hoang tại Cái Đôi (xã Hoà Bình, huyện Chợ Mới), cù lao Giêng (xã Tấn Mỹ,huyện Chợ Mới) vào năm 1778 và lập được 4 thôn Toàn Đức, Phú Hưng, Mỹ Hưng,Toàn Đức Đông. Ông Dương Văn Hoá lập thôn Bình Lâm (xã Bình Thuỷ, ChâuPhú) năm 1783, ông Lê Công Thoàn lập ấp Châu Long (thị xã Châu Đốc) vào cuốithế kỉ XVIII...Nhìn chung, công cuộc khẩn hoang ở An Giang vào thể kỉ XVII còn nhiều hạn chếdo chiến tranh và dịch bệnh, nhưng tạo tiền đề cho công cuộc khẩn hoang lập làngquy mô hơn dưới triều Nguyễn.Chính sách khẩn hoang lập làng ở An Giang vào đầu thế kỉ XIXNăm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua lấy hiệu Gia Long, đã đưa ra nhiều biện phápkhẩn hoang ở vùng biên giới An Giang như: chiêu mộ dân cường tráng, lập thànhcơ đội, cho tự chọn đất hoang và vay thóc giống.Năm 1818, trấn thủ trấn Vĩnh Thanh là Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu) tiếnhàng đào kênh Đông Xuyên, nối liền rạch Long Xuyên đến Rạch Giá. Sau khi đàoxong kênh được đặt tên là Thoại Hà và dựng bia lập làng Thoại Sơn (năm 1822).Đầu thế kỉ XIX, tình hình biên giới giữa ta và Chân Lạp (Cam-pu-chia) phức tạp.Dân cư ở vùng đất An Giang còn thưa thớt. Nhằm giải quyết việc quốc phòng, vuaGia Long chỉ dụ cho Nguyễn Văn Thoại xúc tiến đào kênh Vĩnh Tế.Sau khi kênh hoàn thành, Nguyễn Văn Thoại chiêu mộ lưu dân đến lập được 20thôn và đắp con lộ nối liền Châu Đốc đến núi Sam.Tính đến năm 1819, ở hữu ngạn sông Hậu nhiều thôn mới thành lập: Bình ThạnhTây, Bình Trung, Bình Lâm (Châu Phú), Bình Đức, Mỹ Phước, Mỹ Thạnh (thànhphố Long Xuyên). Nhiều thôn dọc kênh Vĩnh Tế hình thành: Vĩnh Tế, Nhơn Hưng,An Quới, Thanh Nhơn, Vĩnh Bảo, Long Thạnh, Toàn Thạnh, Vĩnh Gia, Vĩnh Lạc.Dưới triều vua Gia Long, ở An Giang thực hiện các công trình đào kênh góp phầnthúc đẩy việc khai khẩn đất đai và lập thôn làng.Chính sách đồn điền của triều Nguyễn (1820 – 1867)Năm 1821, Nguyễn Văn Thoại đã chiêu mộ nhiều lưu dân đến An Giang lập nghiệp.Năm 1828, hình thức đồn điền được tái lập ở An Giang với nhiều chính sách tíchcực như miễn thuế đinh, thuế điền 3 năm, cho mượn vốn và hỗ trợ công cụ... NgườiChăm đến định cư ở vùng Châu Đốc và lập được 7 làng: Châu Giang (xã Phú Hiệp,Phú Tân), Katambong (xã Khánh Hoà, Châu Phú), Phũm Soài (xã Châu Phong,Tân Châu), La Ma (xã Vĩnh Trường, An Phú), Ka Côi (xã Nhơn HộI, An Phú, KaCôi Ki (xã Quốc Thái, An Phú), Sa Bâu (xã Khánh Bình, An Phú). Đến năm 1845,linh mục Jacques Dương lập họ đạo Năng Gù (xã An Hoà, Châu Thành), khai khẩnđất đai.Đến thời vua Tự Đức, Kinh lược sứ Nam Kì Nguyễn Tri Phương đề ra kế hoạchkhẩn hoang, trong đó đáng chú ý thành phần khẩn hoang có cả những tù nhân. Họđược hỗ trợ lương thực, nông cụ và trâu bò để cày cấy. Tính đến năm 1853, NguyễnTri Phương lập được 23 ấp ở An Giang.Năm 1851, giáo phái Bửu Sơn Kì Hương c ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
lễ hội văn hóa lịch sử văn hóa việt nam tài liệu lịch sử kiến thức lịch sử lịch sử trang phục việt lịch sử dân tộc Việt Nam tài liệu về Lý Thường KiệtTài liệu có liên quan:
-
BÀI GIẢNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN - TS. NGUYỄN VĂN LỊCH - 5
23 trang 228 0 0 -
Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam - Trần Quốc Vương (chủ biên)
31 trang 137 0 0 -
Lịch sử văn minh thế giới: Thành tựu văn minh Ả Rập
27 trang 102 1 0 -
82 trang 86 0 0
-
Công tác dân vận của Đảng góp phần tạo nên thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954
7 trang 80 0 0 -
GIÁO TRÌNH TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - LƯU THÔNG TIỀN TỆ - THS. TRẦN ÁI KẾT - 5
24 trang 79 0 0 -
GIÁO TRÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC - TS. NGUYỄN ĐỨC BÁCH - 8
18 trang 78 0 0 -
GIÁO TRÌNH TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - LƯU THÔNG TIỀN TỆ - THS. TRẦN ÁI KẾT - 1
24 trang 60 0 0 -
CẨM NANG NGÂN HÀNG - MBA. MẠC QUANG HUY - 4
11 trang 60 0 0 -
Nhật ký Anne Frank - Phần 11 T
6 trang 49 0 0