Quản lý nhãn hiệu
Số trang: 42
Loại file: pdf
Dung lượng: 541.11 KB
Lượt xem: 22
Lượt tải: 0
Xem trước 5 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Khi bạn đã học xong chương này, bạn sẽ hiểu: • bản chất của các nhãn hiệu và chức năng của chúng đối với cả người mua lẫn người bán • hai khái niệm khác nhau về vốn nhãn hiệu (brand equity) – tổ chức và khách hàng – và những phương pháp đo lường chúng • kiểm định sự lành mạnh của nhãn hiệu • những khác biệt giữa việc gắn nhãn hiệu ô dù và việc gắn nhiều nhãn hiệu • làm sao để hồi sinh các nhãn hiệu đang cố sống còn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quản lý nhãn hiệu QUẢN LÝ NHÃN HIỆU...Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Quản lý Marketing trong thế kỷ 21Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 11: Quản lý nhãn hiệu QUẢN LÝ NHÃN HIỆU MỤC TIÊU HỌC TẬP Khi bạn đã học xong chương này, bạn sẽ hiểu: • bản chất của các nhãn hiệu và chức năng của chúng đối với cả người mua lẫn người bán • hai khái niệm khác nhau về vốn nhãn hiệu (brand equity) – tổ chức và khách hàng – và những phương pháp đo lường chúng • kiểm định sự lành mạnh của nhãn hiệu • những khác biệt giữa việc gắn nhãn hiệu ô dù và việc gắn nhiều nhãn hiệu • làm sao để hồi sinh các nhãn hiệu đang cố sống còn • vốn nhãn hiệu đối với tổ chức có thể được bẩy (leveraged) như thế nào • vai trò của nhãn hiệu trong liên minh chiến lược • các vấn đề liên quan trong việc gắn nhãn hiệu toàn cầu. Noel Capon & J. M. Hulbert Biên dịch: Xinh XinhChương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Quản lý Marketing trong thế kỷ 21Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 11: Quản lý nhãn hiệu DẪN NHẬP Nếu phải phân chia doanh nghiệp này, tôi sẽ vui lòng nhận các nhãn hiệu, các nhãn hiệu thương mại và lợi thế thương mại, và bạn có thể lấy tất cả gạch và vữa (giá trị tất cả công trình xây dựng) và tôi sẽ làm ăn phát đạt hơn bạn.1 - John Stuart, nguyên Chủ tịch của Quaker. Trong những năm gần đây, người ta công nhận việc gắn nhãn hiệu là một trong những lĩnh vực ra quyết định quan trọng hơn của doanh nghiệp. Việc đặt tên cho sản phẩm hay dịch vụ đã từng được xem là vấn đề thứ yếu. Thế nhưng ngày nay những xem xét về vốn nhãn hiệu (brand equity) là nằm trong số những yếu tố thúc đẩy thay đổi quan trọng nhất trong thông lệ marketing hiện thời. Đối với nhiều công ty trên khắp thế giới, giá trị của các nhãn hiệu lớn hơn hẳn giá trị tài sản ròng trên bảng tổng kết tài sản của công ty. Nhận thức này hoàn toàn phù hợp với triết lý marketing hướng ra bên ngoài được phát triển trước đây, và đang dẫn đến việc xem xét lại bản chất của tài sản có của doanh nghiệp. Tuy nhiên, chủ đề vốn nhãn hiệu thật phức tạp, vì nó áp dụng cho các tổ chức và khách hàng của các tổ chức này theo những cách khác nhau. Chương này tìm hiểu về sự phân biệt đó, tiếp theo là nghiên cứu vô số các quyết định về nhãn hiệu mà các doanh nghiệp phải đưa ra. Chương 19 sẽ thảo luận các vấn đề về tổ chức. NHÃN HIỆU (BRAND) LÀ GÌ? Nhãn hiệu là một phần cuộc sống thường nhật của cả người tiêu dùng lẫn các tổ chức. Nhãn hiệu là tên hay vật tượng trưng để phân biệt như là các biểu tượng (logos), nhãn hiệu thương mại, thiết kế bao bì, và người phát ngôn. Người bán phát triển các nhãn hiệu để nhận dạng hàng hóa và dịch vụ của mình, để phân biệt các hàng hóa và dịch vụ đó với hàng hóa và dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh, và cung cấp giá trị cho khách hàng sao cho người bán chiếm lĩnh được thị trường và thu nhận được lợi ích về tài chính. Bất chấp định nghĩa đơn giản này, nhãn hiệu có phạm vi áp dụng rộng. Ở cấp độ nhỏ nhất, nhãn hiệu (brand) đề cập đến một sản phẩm riêng lẻ, như Boxster (Porsche) hay Corvette (Chevrolet). Nhãn hiệu (brand) cũng áp dụng cho các dòng sản phẩm gồm một nhóm sản phẩm liên quan chặt chẽ với nhau có chức năng tương tự. Thí dụ, nhãn hiệu Ragu (family) gắn với nhiều loại nước xốt bao gồm cả Pizza, Chunky Garden Style, Robust Blend Hearty, Light, Old World Style, và Cheese. Rộng hơn nữa, nhãn hiệu (brand) đề cập đến một nhóm sản phẩm hay dịch vụ vốn có thể thực hiện nhiều chức năng khác nhau. Thường trong những trường hợp này, nhãn hiệu đó là nhãn hiệu công ty (corporate brand), như CityGroup, Marks and Spencer, IBM, Carrefour, GE, General Motors, hay Yamaha (Hình 11.1) Công ty Citibank, Mercedes- Benz Cocacola Ragu family, Claritin family Chevrolet Noel Capon & J. M. Hulbert 2 Biên dịch: Xinh Xinh Mercedes S Class, Sprite, Geo, Dockers, Corvette, LuminaChương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Quản lý Marketing trong thế kỷ 21Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 11: Quản lý nhãn hiệu Dòng sản phẩm Sản phẩm HÌNH 11.1 Việc gắn nhãn ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quản lý nhãn hiệu QUẢN LÝ NHÃN HIỆU...Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Quản lý Marketing trong thế kỷ 21Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 11: Quản lý nhãn hiệu QUẢN LÝ NHÃN HIỆU MỤC TIÊU HỌC TẬP Khi bạn đã học xong chương này, bạn sẽ hiểu: • bản chất của các nhãn hiệu và chức năng của chúng đối với cả người mua lẫn người bán • hai khái niệm khác nhau về vốn nhãn hiệu (brand equity) – tổ chức và khách hàng – và những phương pháp đo lường chúng • kiểm định sự lành mạnh của nhãn hiệu • những khác biệt giữa việc gắn nhãn hiệu ô dù và việc gắn nhiều nhãn hiệu • làm sao để hồi sinh các nhãn hiệu đang cố sống còn • vốn nhãn hiệu đối với tổ chức có thể được bẩy (leveraged) như thế nào • vai trò của nhãn hiệu trong liên minh chiến lược • các vấn đề liên quan trong việc gắn nhãn hiệu toàn cầu. Noel Capon & J. M. Hulbert Biên dịch: Xinh XinhChương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Quản lý Marketing trong thế kỷ 21Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 11: Quản lý nhãn hiệu DẪN NHẬP Nếu phải phân chia doanh nghiệp này, tôi sẽ vui lòng nhận các nhãn hiệu, các nhãn hiệu thương mại và lợi thế thương mại, và bạn có thể lấy tất cả gạch và vữa (giá trị tất cả công trình xây dựng) và tôi sẽ làm ăn phát đạt hơn bạn.1 - John Stuart, nguyên Chủ tịch của Quaker. Trong những năm gần đây, người ta công nhận việc gắn nhãn hiệu là một trong những lĩnh vực ra quyết định quan trọng hơn của doanh nghiệp. Việc đặt tên cho sản phẩm hay dịch vụ đã từng được xem là vấn đề thứ yếu. Thế nhưng ngày nay những xem xét về vốn nhãn hiệu (brand equity) là nằm trong số những yếu tố thúc đẩy thay đổi quan trọng nhất trong thông lệ marketing hiện thời. Đối với nhiều công ty trên khắp thế giới, giá trị của các nhãn hiệu lớn hơn hẳn giá trị tài sản ròng trên bảng tổng kết tài sản của công ty. Nhận thức này hoàn toàn phù hợp với triết lý marketing hướng ra bên ngoài được phát triển trước đây, và đang dẫn đến việc xem xét lại bản chất của tài sản có của doanh nghiệp. Tuy nhiên, chủ đề vốn nhãn hiệu thật phức tạp, vì nó áp dụng cho các tổ chức và khách hàng của các tổ chức này theo những cách khác nhau. Chương này tìm hiểu về sự phân biệt đó, tiếp theo là nghiên cứu vô số các quyết định về nhãn hiệu mà các doanh nghiệp phải đưa ra. Chương 19 sẽ thảo luận các vấn đề về tổ chức. NHÃN HIỆU (BRAND) LÀ GÌ? Nhãn hiệu là một phần cuộc sống thường nhật của cả người tiêu dùng lẫn các tổ chức. Nhãn hiệu là tên hay vật tượng trưng để phân biệt như là các biểu tượng (logos), nhãn hiệu thương mại, thiết kế bao bì, và người phát ngôn. Người bán phát triển các nhãn hiệu để nhận dạng hàng hóa và dịch vụ của mình, để phân biệt các hàng hóa và dịch vụ đó với hàng hóa và dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh, và cung cấp giá trị cho khách hàng sao cho người bán chiếm lĩnh được thị trường và thu nhận được lợi ích về tài chính. Bất chấp định nghĩa đơn giản này, nhãn hiệu có phạm vi áp dụng rộng. Ở cấp độ nhỏ nhất, nhãn hiệu (brand) đề cập đến một sản phẩm riêng lẻ, như Boxster (Porsche) hay Corvette (Chevrolet). Nhãn hiệu (brand) cũng áp dụng cho các dòng sản phẩm gồm một nhóm sản phẩm liên quan chặt chẽ với nhau có chức năng tương tự. Thí dụ, nhãn hiệu Ragu (family) gắn với nhiều loại nước xốt bao gồm cả Pizza, Chunky Garden Style, Robust Blend Hearty, Light, Old World Style, và Cheese. Rộng hơn nữa, nhãn hiệu (brand) đề cập đến một nhóm sản phẩm hay dịch vụ vốn có thể thực hiện nhiều chức năng khác nhau. Thường trong những trường hợp này, nhãn hiệu đó là nhãn hiệu công ty (corporate brand), như CityGroup, Marks and Spencer, IBM, Carrefour, GE, General Motors, hay Yamaha (Hình 11.1) Công ty Citibank, Mercedes- Benz Cocacola Ragu family, Claritin family Chevrolet Noel Capon & J. M. Hulbert 2 Biên dịch: Xinh Xinh Mercedes S Class, Sprite, Geo, Dockers, Corvette, LuminaChương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Quản lý Marketing trong thế kỷ 21Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 11: Quản lý nhãn hiệu Dòng sản phẩm Sản phẩm HÌNH 11.1 Việc gắn nhãn ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
quản lý marketing chương trình marketing quản lý nhãn hiệu nhãn hiệu hàng hóa chiến lược bao bì thương hiệu sản phẩmTài liệu có liên quan:
-
Quản lý hoạt động marketing: Phân tích môi trường marketing
16 trang 209 0 0 -
Bài giảng Hành vi người tiêu dùng - PGS.TS. Vũ Huy Thông
72 trang 158 1 0 -
Tiểu luận: Tình hình xây dựng một số thương hiệu nông sản Việt Nam trong cạnh tranh - hội nhập
39 trang 81 0 0 -
Tác động của người ảnh hưởng đến ý định mua mỹ phẩm của người tiêu dùng tại thành phố Hồ Chí Minh
7 trang 52 0 0 -
88 trang 40 0 0
-
2 trang 36 0 0
-
Đề án Hiệu hàng, bao gói và các đặc điểm khác nhau của sản phẩm
33 trang 34 0 0 -
1 trang 33 0 0
-
Bài giảng Marketing thương mại: Chương 5 - Nguyễn Tường Huy
15 trang 33 1 0 -
Bài giảng Quản trị marketing - ThS. Trần Thị Ý Nhi
54 trang 33 0 0