Danh mục tài liệu

SÁCH LINH KHU - THIÊN 1- CỬU CHÂM THẬP NHỊ NGUYÊN

Số trang: 11      Loại file: pdf      Dung lượng: 115.07 KB      Lượt xem: 5      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Hoàng đế hỏi Kỳ Bá: “Ta xem vạn dân như con, ta nuôi dưỡng trăm họ, thu tô thuế của họ. Ta chỉ buồn là nuôi họ không đủ để rồi họ bị bệnh tật [1]. Ta không muốn để cho họ bị uống phải độc dược, cũng không muốn dùng đá để biếm[2]. Ta muốn dùng loại kim vi châm để thông kinh mạch cho họ, điều hòa khí huyết cho họ, làm thế nào để cho khí huyết vận hành theo nghịch hay thuận đều có chỗ hội nhau [3] . (Những ước muốn trên) phải có...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SÁCH LINH KHU - THIÊN 1- CỬU CHÂM THẬP NHỊ NGUYÊN SÁCH LINH KHU THIÊN 1: CỬU CHÂM THẬP NHỊ NGUYÊN Hoàng đế hỏi Kỳ Bá: “Ta xem vạn dân như con, ta nuôi dưỡng trămhọ, thu tô thuế của họ. Ta chỉ buồn là nuôi họ không đủ để rồi họ bị bệnh tật[1]. Ta không muốn để cho họ bị uống phải độc dược, cũng không muố ndùng đá để biếm[2]. Ta muốn dùng loại kim vi châm để thông kinh mạchcho họ, điều hòa khí huyết cho họ, làm thế nào để cho khí huyết vận hànhtheo nghịch hay thuận đều có chỗ hội nhau [3] . (Những ước muốn trên) phảicó cách nào có thể truyền lại cho hậu thế [4]. Muốn truyền được ắt phải cónhững phương pháp rõ ràng, ắt phải đạt được kết quả cuối cùng mà khôngbị hủy diệt, tuy dùng lâu đời mà vẫn không bị tuyệt, dễ làm, khó quên, đánglàm khuôn mẫu có cương kỷ, tách riêng bằng những phạm vi, chương trình,phân biệt biểu và lý, có thỉ có chung [5]. Biết được một cách cụ thể bệnh nàochâm kim nào [6]. Vậy trước hết phải viết ra quyển sách CHÂM KINH. Tamong được nghe thầy trình bày rõ ràng hơn” [7]. Kỳ Bá đáp : “Thần xin được theo thứ tự mà trình bày rộng ra, làm saocho vấn đề có cương, có kỷ, bắt đầu ở Nhất và chấm dứt ở Cửu [8]. Trướchết, Thần xin nói về (Châm) Đạo [9]. Việc quan trọng trong khi sử dụng tiểuchâm là dễ trình bày nhưng rất khó thực hành [10]. Phương pháp vụng về làchỉ lo giữ về mặt hình thái (của bệnh), phương pháp khéo léo là phải lo lưu ýđến thần khí [11]. Thần ư ! Thần và khách đều gặp nhau ở cửa của các kinh.chưa thấy được bệnh ở đâu, làm sao biết được nguyên gốc của bệnh? [12].Sự vi diệu của phép châm là ở chỗ nhanh hay chậm [13]. Phương pháp vụngvề là chỉ lo giữ lấy tứ chi, phương pháp khéo léo là lo giữ cơ [14]. Khi nóiđến cái động của cơ là ý nói người châm không được rời sự chú ý của mìnhđối với huyệt khí [15]. Cơ của huyệt khí vận hành một cách thanh tĩnh, cho nên chúng ta phảichú ý một cách tinh vi [16]. Không nên đón gặp khi nó đến, không nên rượttheo khi nó ra đi [17]. Người biết được con đường vận hành của cơ thìkhông để sai sót dù là việc nhỏ bằng một sợi tóc [18]. Người không biết conđường vận hành của cơ thì dù có đánh vào nó, nó c ũng không phát ra vậy[19]. Biết được con đường vãng lai của khí thì sẽ biết được lúc nào có thểthủ huyệt để châm [20]. Thực là tối tăm thay không những kẻ không biếtđược (sự vi diệu của cơ)! [21]. Thực là khéo léo thay người nào hiểu rõchâm ý đó [22]. Khí vãng gọi là nghịch, khí lai gọi là thuận [23]. Biết đượcsự thuận hay nghịch thì sẽ thực hành việc châm bằng con đường chính đạo,không còn thắc mắc gì nữa! [24]. Khí nghịch mà chúng ta dùng phép đoạt, làm sao tránh khỏi sẽ gâycho khí bị hư thêm? [25]. (Khi khí đã ra đi) mà ta rượt theo để thêm cho nó,làm sao tránh khỏi gây cho khí bị thực thêm? [26]. Phép châm theo đúng“nghênh, tùy”, lấy ý để điều hòa nó [27]. Được vậy thì đạo của phép châmmới tròn vẹn vậy” [28]. Phàm khi dụng châm: hư thì áp dụng phép châmthực, mãn thì áp dụng phép châm tiết [29]. Khi tà khí bị tích tàng lâu ngàythì phải trừ đi, khi tà khí thắng thì phải áp dụng phép châm hư [30]. Thiên“Đại Yếu” nói rằng: Châm theo phép “chậm rồi nhanh” gọi là châm thực[31]. Châm theo phép “nhanh rồi chậm” gọi là châm hư [32]. Khi nói đến “thực và hư” là muốn nói đến một cái gì như “có”, như“không có” [33]. Khi nói đến “xét sau và trước” là muốn nói đến một cái gìnhư “còn” như “mất” [34]. Khi nói đến “hư và thực” là muốn nói đến mộtcái gì như “được”, như “mất” [35]. Việc trị hư và thực rất quan trọng, dùngphép ‘Cửu châm’ là hay nhất, nhưng phải đợi đúng thời thích hợp cho việcbổ hoặc tả để mà châm [36]. Khi dùng phép tả, tức là dùng phép “nghênh chi”, “nghênh chi” cónghĩa là bắt buộc kim phải được nắm cho chắc, và bên trong phải thật bénnhọn [37]. Đợi lúc khí đến thì phải rút kim thật nhanh và án phải thật chậm,nhờ đó có thể mở được con đường dương đạo giúp cho tà khí tiết ra ngoài[38]. Khi rút kim ra (trong phép tả) mà án huyệt, như vậy sẽ làm cho tà khíbị đẩy trở vào và chất chứa bên trong, huyết sẽ không tán được, khí sẽ khôngxuất được [39]. Khi dùng phép bổ, tức là dùng phép “tùy chi” [40]. “Tùy chi” cónghĩa là phải làm sao cho người bệnh ít bị kích thích, giống như không cóchuyện gì xẩy ra, giống như đang châm, đang dừng (tiến hành thật chậm),giống như con muỗi đang đậu lên, giống như đang giữ lại, đang lấy về [41].Khi rút kim ra phải thật nhanh như dây đàn bị đứt, vừa làm công việc bên tả,lại lo việc bên hữu, như vậy khí sẽ bị dừng lại, cửa ngoài bị đã bị bế thì khíbên trong mới thực [42]. Điều quan trọng là không làm cho huyết bị lưu giữ(bên trong) [43]. Nếu huyết bị lưu giữ, phải châm xuất cho thật nhanh [44]. Đạo giữ kim phải giữ cho vững mới thật quý, ngay thẳng như ngóntay châm thẳng xuống, không nên nghiêng tả hoặc nghiêng hữu [45]. (Phépgiữ) thần khí (phải tinh vi) chính xác như sợi lông mùa ...