Sinh kế cộng đồng và tình trạng khai thác - nuôi trồng thủy sản vùng hồ thủy điện Đồng Nai 3, huyện Đăk G'Long, tỉnh Đăk Nông
Số trang: 10
Loại file: pdf
Dung lượng: 1.09 MB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Áp dụng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA – Rapid Rural Appraisal) và phương pháp điều tra xã hội sử dụng bộ câu hỏi bán cấu trúc, nghiên cứu đã cho thấy cộng đồng dân cư vùng hồ Đồng Nai 3 là một cộng đồng “thủy diện” chỉ được hình thành gần đây với cư dân từ nhiều vùng khác nhau. Do nguồn lực hạn chế và cơ cấu dân số trẻ (chỉ 7,1% dân số trên tuổi lao động), hầu hết cư dân của cộng đồng tham gia vào các hoạt động tạo thu nhập, chủ yếu là nuôi cá lồng (45,8%) và khai thác thủy sản (41,7% tổng số hộ).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sinh kế cộng đồng và tình trạng khai thác - nuôi trồng thủy sản vùng hồ thủy điện Đồng Nai 3, huyện Đăk G’Long, tỉnh Đăk Nông Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC SINH KẾ CỘNG ĐỒNG VÀ TÌNH TRẠNG KHAI THÁC – NUÔI TRỒNG THỦY SẢN VÙNG HỒ THỦY ĐIỆN ĐỒNG NAI 3, HUYỆN ĐĂK G’LONG, TỈNH ĐĂK NÔNG COMMUNITY LIVELIHOODS AND SITUATION OF FISHING - AQUACULTURE AT HYDROPOWER RESERVOIR OF DONG NAI 3, DAK G’LONG DISTRICT, DAK NONG PROVINCE Nguyễn Văn Quỳnh Bôi1, Trần Văn Phước1 Ngày nhận bài: 05/01/2016; Ngày phản biện thông qua: 08/7/2016; Ngày duyệt đăng:15/12/2016 TÓM TẮT Áp dụng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA – Rapid Rural Appraisal) và phương pháp điều tra xã hội sử dụng bộ câu hỏi bán cấu trúc, nghiên cứu đã cho thấy cộng đồng dân cư vùng hồ Đồng Nai 3 là một cộng đồng “thủy diện” chỉ được hình thành gần đây với cư dân từ nhiều vùng khác nhau. Do nguồn lực hạn chế và cơ cấu dân số trẻ (chỉ 7,1% dân số trên tuổi lao động), hầu hết cư dân của cộng đồng tham gia vào các hoạt động tạo thu nhập, chủ yếu là nuôi cá lồng (45,8%) và khai thác thủy sản (41,7% tổng số hộ). Đời sống của các hộ, do vậy, dễ bị tổn thương với 4,2% số hộ ở tình trạng nghèo đói (thu nhập bình quân đầu người dưới 400.000 VND/tháng). Theo đó, nguồn lợi thủy sản có chiều hướng suy thoái do áp lực khai thác. Từ khóa: cộng đồng và nguồn lợi thủy sản, điều tra xã hội, nguồn lực, sinh kế ABSTRACT Applying methods of Rapid Rural Appraisal and social survey using semi-structured questionnaire, the study showed that residential community at Dong Nai 3 reservoir was a “water-based living” just formed recently by people from many different areas. Due to limited livelihood resources and young population structure (only 7.1% population was over working age), almost people of the community involved in income generating activities, mainly fish cage-culture (45.8%) and fishing (41.7% total households). Therefore, households living was easily vulnerable with 4.2% total households in poverty (income per capita was less than 400,000 VND per month). Accordingly, fisheries resources were likely decreased due to fishing pressure. Keywords: community and fisheries resources, social survey, assets, livelihoods I. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay, trong bối cảnh suy thoái môi trường và nguồn tài nguyên sinh vật nói chung, thủy sinh vật nói riêng, vai trò của nguồn lợi thủy sinh vật đối với đời sống cộng đồng ngày càng được chú trọng. Bên cạnh giá trị đối với hệ sinh thái và cảnh quan - môi trường, nguồn lợi 1 thủy sản còn góp phần tạo công việc cho cư dân địa phương, tăng thu nhập cho các hộ và cộng đồng. Do đó, phát triển kinh tế địa phương đi đôi với bảo vệ môi trường, bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản là những vấn đề luôn được các quốc gia đang phát triển quan tâm. Đối với Việt Nam, do tầm quan trọng Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang NHA TRANG UNIVERSITY • 17 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản của nguồn lợi thủy sản, ngày 13/02/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 188/QĐ-TTg phê duyệt chương trình bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản đến năm 2020. Mục tiêu tổng thể của Chương trình là bảo tồn và tái tạo nguồn lợi thủy sản Đến nay vẫn tìm thấy không nhiều các nghiên cứu tập trung cụ thể vào vấn đề liên quan giữa nuôi trồng và nguồn lợi thủy sản với sinh kế những cộng đồng dân cư khu vực quanh các hồ chứa thủy điện, đặc biệt ở Việt Nam và nhất là ở Tây Nguyên. Trong phạm vi khu vực, công bố của Phounsavath năm 1998 về một nghiên cứu điển hình đối với hai cộng đồng nghề cá tại hồ chứa Nam Ngum, Lao P.D.R nhấn mạnh đến vai trò quản lý dựa trên cộng đồng đối với nghề cá hồ chứa nhằm phát triển nuôi trồng và quản lý nguồn lợi thủy sản. Chuyên khảo của Mạng lưới trung tâm nuôi trồng thủy sản châu Á - Thái Bình dương (Network of Aquaculture Centres in Asia-Pacific - NACA) về tình trạng nghề cá hồ chứa tại 5 quốc gia châu Á bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Nepal, Sri Lanka và Thái Lan [11] cũng phần nào cho thấy ý nghĩa của vấn đề kinh tế - xã hội (bao gồm thu nhập và sinh kế) trong việc quản lý và khai thác các nguồn lợi của hồ chứa. Tập trung vào các hoạt động sinh kế của cộng đồng dân cư trong vùng, có công bố của Hồ Mạnh Tuấn và cộng sự năm 2008 về một nghiên cứu điển hình ở hai hồ chứa nhỏ thuộc tỉnh Bình Phước. Gần đây, một công bố của Lê Ngọc Châu và cộng sự (2011), về hiện trạng khai thác cá ở một số hồ chứa nhỏ (
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sinh kế cộng đồng và tình trạng khai thác - nuôi trồng thủy sản vùng hồ thủy điện Đồng Nai 3, huyện Đăk G’Long, tỉnh Đăk Nông Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016 THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC SINH KẾ CỘNG ĐỒNG VÀ TÌNH TRẠNG KHAI THÁC – NUÔI TRỒNG THỦY SẢN VÙNG HỒ THỦY ĐIỆN ĐỒNG NAI 3, HUYỆN ĐĂK G’LONG, TỈNH ĐĂK NÔNG COMMUNITY LIVELIHOODS AND SITUATION OF FISHING - AQUACULTURE AT HYDROPOWER RESERVOIR OF DONG NAI 3, DAK G’LONG DISTRICT, DAK NONG PROVINCE Nguyễn Văn Quỳnh Bôi1, Trần Văn Phước1 Ngày nhận bài: 05/01/2016; Ngày phản biện thông qua: 08/7/2016; Ngày duyệt đăng:15/12/2016 TÓM TẮT Áp dụng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA – Rapid Rural Appraisal) và phương pháp điều tra xã hội sử dụng bộ câu hỏi bán cấu trúc, nghiên cứu đã cho thấy cộng đồng dân cư vùng hồ Đồng Nai 3 là một cộng đồng “thủy diện” chỉ được hình thành gần đây với cư dân từ nhiều vùng khác nhau. Do nguồn lực hạn chế và cơ cấu dân số trẻ (chỉ 7,1% dân số trên tuổi lao động), hầu hết cư dân của cộng đồng tham gia vào các hoạt động tạo thu nhập, chủ yếu là nuôi cá lồng (45,8%) và khai thác thủy sản (41,7% tổng số hộ). Đời sống của các hộ, do vậy, dễ bị tổn thương với 4,2% số hộ ở tình trạng nghèo đói (thu nhập bình quân đầu người dưới 400.000 VND/tháng). Theo đó, nguồn lợi thủy sản có chiều hướng suy thoái do áp lực khai thác. Từ khóa: cộng đồng và nguồn lợi thủy sản, điều tra xã hội, nguồn lực, sinh kế ABSTRACT Applying methods of Rapid Rural Appraisal and social survey using semi-structured questionnaire, the study showed that residential community at Dong Nai 3 reservoir was a “water-based living” just formed recently by people from many different areas. Due to limited livelihood resources and young population structure (only 7.1% population was over working age), almost people of the community involved in income generating activities, mainly fish cage-culture (45.8%) and fishing (41.7% total households). Therefore, households living was easily vulnerable with 4.2% total households in poverty (income per capita was less than 400,000 VND per month). Accordingly, fisheries resources were likely decreased due to fishing pressure. Keywords: community and fisheries resources, social survey, assets, livelihoods I. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay, trong bối cảnh suy thoái môi trường và nguồn tài nguyên sinh vật nói chung, thủy sinh vật nói riêng, vai trò của nguồn lợi thủy sinh vật đối với đời sống cộng đồng ngày càng được chú trọng. Bên cạnh giá trị đối với hệ sinh thái và cảnh quan - môi trường, nguồn lợi 1 thủy sản còn góp phần tạo công việc cho cư dân địa phương, tăng thu nhập cho các hộ và cộng đồng. Do đó, phát triển kinh tế địa phương đi đôi với bảo vệ môi trường, bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản là những vấn đề luôn được các quốc gia đang phát triển quan tâm. Đối với Việt Nam, do tầm quan trọng Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang NHA TRANG UNIVERSITY • 17 Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản của nguồn lợi thủy sản, ngày 13/02/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 188/QĐ-TTg phê duyệt chương trình bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản đến năm 2020. Mục tiêu tổng thể của Chương trình là bảo tồn và tái tạo nguồn lợi thủy sản Đến nay vẫn tìm thấy không nhiều các nghiên cứu tập trung cụ thể vào vấn đề liên quan giữa nuôi trồng và nguồn lợi thủy sản với sinh kế những cộng đồng dân cư khu vực quanh các hồ chứa thủy điện, đặc biệt ở Việt Nam và nhất là ở Tây Nguyên. Trong phạm vi khu vực, công bố của Phounsavath năm 1998 về một nghiên cứu điển hình đối với hai cộng đồng nghề cá tại hồ chứa Nam Ngum, Lao P.D.R nhấn mạnh đến vai trò quản lý dựa trên cộng đồng đối với nghề cá hồ chứa nhằm phát triển nuôi trồng và quản lý nguồn lợi thủy sản. Chuyên khảo của Mạng lưới trung tâm nuôi trồng thủy sản châu Á - Thái Bình dương (Network of Aquaculture Centres in Asia-Pacific - NACA) về tình trạng nghề cá hồ chứa tại 5 quốc gia châu Á bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Nepal, Sri Lanka và Thái Lan [11] cũng phần nào cho thấy ý nghĩa của vấn đề kinh tế - xã hội (bao gồm thu nhập và sinh kế) trong việc quản lý và khai thác các nguồn lợi của hồ chứa. Tập trung vào các hoạt động sinh kế của cộng đồng dân cư trong vùng, có công bố của Hồ Mạnh Tuấn và cộng sự năm 2008 về một nghiên cứu điển hình ở hai hồ chứa nhỏ thuộc tỉnh Bình Phước. Gần đây, một công bố của Lê Ngọc Châu và cộng sự (2011), về hiện trạng khai thác cá ở một số hồ chứa nhỏ (
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Sinh kế cộng đồng Tình trạng khai thác hải sản Nuôi trồng hải sản Điều tra xã hội Nguồn lợi hải sản Tỉnh Đăk NôngTài liệu có liên quan:
-
Quyết định số 19/2012/QĐ-UBND
24 trang 61 0 0 -
10 trang 43 0 0
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp giảm nghèo cho huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông
26 trang 37 0 0 -
Thành phần loài và phân bố nguồn lợi hải sản ở vùng biển tỉnh Bến Tre
9 trang 36 0 0 -
Quyết định số: 02/2014/QĐ-UBND (9tr)
9 trang 34 0 0 -
26 trang 33 0 0
-
Thảo luận: Xã hội học về dư luận xã hội
18 trang 33 0 0 -
26 trang 32 0 0
-
Quyết định số 22/2012/QĐ-UBND
33 trang 32 0 0 -
50 trang 31 0 0