Danh mục tài liệu

TÀI LIỆU GIẢNG DẠY VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ

Số trang: 52      Loại file: pdf      Dung lượng: 641.38 KB      Lượt xem: 19      Lượt tải: 0    
Xem trước 6 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Quyền sở hữu trí tuệ tồn tại chủ yếu theo luật pháp quốc gia. Cái được gọi là quyền sở hữu trí tuệ toàn cầu có nghĩa là một tập hợp các quyền có khả năng được thực hiện theo pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, ở hầu hết các nước, quyền mang tính chất quốc gia đó không chỉ tồn tại như ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TÀI LIỆU GIẢNG DẠY VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ TÀI LIỆU GIẢNG DẠY VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ CURRICULUM ON INTELLECTUAL PROPERTY Professor Michael Blakeney Queen Mary Intellectual Property Research Institute University of London TÀI LIỆU GIẢNG DẠY VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ Giáo sư Michael Blakeney Viện nghiên cứu Sở hữu trí tuệ Queen Mary Đại học London Provided and translated by the EC-ASEAN Intellectual Property Rights Co-operation Programme (ECAP II) Tài liệu này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) dịch và cung cấp Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ cung cấp Bài 8. Luật quốc tế về sở hữu trí tuệ 1. Luật quốc tế và quyền sở hữu trí tuệ 1.1 Giới thiệu Quyền sở hữu trí tuệ tồn tại chủ yếu theo luật pháp quốc gia. Cái được gọi là quyền sở hữu trí tuệ toàn cầu (quốc tế) có nghĩa là một tập hợp các quyền có khả năng được thực thi theo pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, có thể nói rằng ở hầu hết các nước, quyền mang tính chất quốc gia đó không chỉ tồn tại như một hệ quả của nội luật mà còn là các nghĩa vụ quốc tế đa phương, song phương hoặc khu vực. Ở một số hiệp hội khu vực như Liên minh châu Âu, pháp luật khu vực có thể có hiệu lực áp dụng trực tiếp tại các quốc gia hoặc có thể đặt ra các tiêu chuẩn về sở hữu trí tuệ cho pháp luật quốc gia. Luật sở hữu trí tuệ quốc tế có vai trò quan trọng trong việc hài hoà hoá các quy phạm pháp luật quốc gia về nội dung và thủ tục. Điều này là đặc biệt đúng trong trường hợp Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) của WTO, trong đó đặt ra các tiêu chuẩn mà pháp luật quốc gia phải quy định đối với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ như là một điều kiện để trở thành thành viên của WTO. Vì vậy, luật quốc tế có vai trò hiến định quan trọng cả ở khía cạnh quy định các thủ tục và thể thức cho việc đàm phán về các tiêu chuẩn và chuẩn mực của quyền sở hữu trí tuệ mang tính quốc gia và việc hài hoà hoá các tiêu chuẩn pháp luật quốc gia và khu vực về sở hữu trí tuệ. Việc thừa nhận và áp dụng các chuẩn mực chung về sở hữu trí tuệ sẽ được tạo điều kiện thuận lợi hơn khi các nước có thể tin tưởng rằng các nước đối tác cũng có các chuẩn mực pháp lý tương tự. 1.2 Nguồn pháp lý của luật sở hữu trí tuệ quốc tế Nguồn pháp lý của luật quốc tế áp dụng cho các chế định sở hữu trí tuệ quốc tế cũng như tất cả các lĩnh vực luật quốc tế khác được quy định một cách rõ ràng tại Điều 38 Quy chế Toà án quốc tế. Điều này quy định rằng trong quá trình giải quyết các tranh chấp, Toà án phải áp dụng: a. các điều ước quốc tế, bất kết là chung hay riêng, thiết lập các quy tắc được thừa nhận một cách rõ ràng bởi các nước thành viên; 2 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp b. tập quán quốc tế, với danh nghĩa là thực tiễn chung được chấp nhận như là pháp luật; c. các nguyên tắc chung của pháp luật được các quốc gia văn minh thừa nhận; d. tuỳ thuộc vào các quy định của Điều 59 (trong đó cho phép toà án triệu tập nhân chứng và chuyên gia), các phán quyết của toà án và các bài giảng của các chuyên gia nghiên cứu có uy tín nhất của các nước, với danh nghĩa là công cụ bổ sung để xác định các quy tắc pháp luật. Là một phần Quy chế của Toà án thường trực quốc tế của Liên hiệp các quốc gia (Permanent Court of International Justice of the League of Nations), điều khoản này đã được đưa vào Quy chế của Toà án quốc tế năm 1945. Điều khoản này liệt kê một danh mục các nguồn hiện đại cơ bản của luật quốc tế, mặc dù không chỉ ra thứ tự ưu tiên về mặt hình thức của các nguồn này. Luật sở hữu trí tuệ quốc tế chủ yếu bắt nguồn từ luật điều ước, tuy nhiên, với tầm quan trọng ngày càng gia tăng của việc giải quyết tranh chấp, các nguyên tắc pháp luật chung ngày càng trở nên quan trọng hơn. Những ý kiến khẳng định rằng các nguyên tắc về quyền con người có tính ưu việt so với luật sở hữu trí tuệ đang đòi hỏi phải xem xét lại các nguồn quốc tế truyền thống của luật sở hữu trí tuệ. 1.2.1 Luật điều ước Nền tảng của chế định sở hữu trí tuệ quốc tế là Công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp năm 1883 và Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật năm 1886. Sự phát triển từng bước của chế định sở hữu trí tuệ quốc tế được bắt đầu bằng sự ra đời của các điều ước đặc biệt bắt nguồn từ hai điều ước nêu trên. Hai điểm xuất phát quan trọng của quá trình này là sự ra đời của Công ước Bản quyền toàn cầu tồn tại song song với Công ước Berne và gần đây là sự ra đời của Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ của WTO. Các quy tắc của luật quốc tế điều chỉnh việc giải thích và áp dụng các điều ước được quy định tại Công ước Viên về Luật Điều ước năm 1969. Hầu hết các nước đã tham gia công ước này. Hoa Kỳ là một trường hợp ngoại lệ đặc biệt, mặc dù nước này đã ngụ ý chấp nhận các điều khoản của công ước vì nó phản ánh luật tập quán quốc tế áp dụng cho các điều ước quốc tế. Mặc dù chưa được khẳng định một cách chính thức là các điều ước về việc thành lập các tổ chức khu vực được điều chỉnh bởi Công ước Viên nhưng trên thực tế thì có thể được hiểu là như vậy. 1.2.2 Luật tập quán quốc tế 3 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu có liên quan: