Tiếng làng
Số trang: 11
Loại file: pdf
Dung lượng: 412.79 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Kẻng bom chụp tại làng Diềm, Bắc Ninh. Ảnh: Lê Thiết Cương.Nếu chọn một nhạc cụ gần gũi nhất với người Việt thì nhất định đó là nhạc cụ - gõ chứ không phải hơi, dây hay phím. Chùa nào cũng có gác chuông, có nhiều chùa có cả gác trống, nhiều chùa có khánh đá, khánh đồng, ấy là chưa kể bộ chuông, mõ để tụng kinh.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiếng làngTiếng làngBài viết của Họa sĩ Lê Thiết CươngKẻng bom chụp tại làng Diềm, Bắc Ninh. Ảnh: Lê ThiếtCươngNếu chọn một nhạc cụ gần gũi nhất với người Việt thì nhấtđịnh đó là nhạc cụ - gõ chứ không phải hơi, dây hay phím.Chùa nào cũng có gác chuông, có nhiều chùa có cả gác trống,nhiều chùa có khánh đá, khánh đồng, ấy là chưa kể bộchuông, mõ để tụng kinh.Trong âm nhạc, bắt buộc phải có ba độ là cao độ, trường độ,cường độ thì mới thành được giai điệu, thành được tiết tấu,thì mới thành nhạc.Tiếng khánh trầm bổng, tiếng chuông thì ngân nga ngắn dài,tiếng trống thì mạnh nhẹ. Tức là cũng đủ ba độ. Thế cònchuông mõ? Chắc đó là độ thứ tư, tâm độ?Bản thân tiếng chuông mõ đã là một thứ nhạc rồi, một thứkinh rồi. Tụng kinh thì phải có tiếng chuông, tiếng mõ. Phậtgiáo chú trọng đọc – nghe (tụng, niệm), không thể chỉ nhìnngắm kinh để thành Phật.Nhưng tại sao Phật giáo và Phật giáo Việt Nam lại chú trọngcác nhạc cụ của gõ mà không phải nhạc cụ nào đó của bộdây, bộ hơi hoặc phím? Có lẽ thế này, gõ tức là chủ về nhịpvà tiết tấu, hơi dây phím chủ về giai điệu. Tiết tấu hay giaiđiệu thì cũng chỉ là phương tiện thôi, mục đích cuối cùngphải là kiến tính, kiến tâm. Thế mà giai điệu thì dễ làm ngườita phân tâm. Tiếng của gõ, đánh thức hơn, giữ nhịp hơn, nhịptim, nhịp thở. Dễ hơn trong việc nối thân với tâm, điều hòathân và tâm. Ấy là chưa kể, tụng kinh đã là “hát nói” rồi, cầngì phải giai điệu nữa, chỉ cần chuông mõ cầm nhịp là đủ.Từ thế kỷ thứ II, những nhà sư Ấn Độ đã mang chuông mõ(bộ gõ) đến đây. Theo lẽ tự nhiên, nhập gia tùy tục, khách sẽnương theo chủ để cùng tồn tại. Người khách Phật giáo đãkết hợp với tín ngưỡng thờ tứ Pháp của gia chủ tạo ra một tínngưỡng – tôn giáo Phật giáo không Ấn không Hoa. Trongtiến trình hòa nhập với văn hóa bản địa của Phật giáo thuởban đầu ấy, dễ dàng một phần cũng là bởi người Việt đã cósẵn một truyền thống “gõ” khởi thủy là trống đồng rồi cồngchiêng của người Mường, người Tây Nguyên, đàn đá (cũnglà gõ), trống đất, trống gốm, trống chầu (trong ca trù)… Nhânnói về gõ trong ca trù, theo Vũ trung tùy bút của Phạm ĐìnhHổ, ca trù ở làng quê thì gõ là chính (trống, phách), chỉ cómỗi đàn đáy (dây) ngược lại với ca trù cung đình, nhiều loạiđàn dây và chỉ có một gõ. ưĐâu chỉ trong âm nhạc, sinh hoạt nào của người Việt (hội hè,đình đám, hiếu hỉ, lễ lạt) mà chả có gõ, có trống phách.Làm gì có nhạc cụ nào được chôn theo người chết như trống(những chiếc trống đồng nhỏ trong mộ của cư dân ĐôngSơn).Làm gì có nhạc cụ nào được biết ơn đến mức mang vào đìnhđể thờ như cái mõ bằng gỗ hình con cá trong các ngôi đình:đình Mông Phụ (thế kỷ 16), đình Thổ Hà (thế kỷ 17, tỉnh BắcGiang)… Như một cách để nhớ về gốc biển, gốc nước, gốcNam đảo của mình.Làm gì có quả chuông nào lại không cần phải gõ, không nhấtthiết phải kêu như quả chuông đồng ở chùa Cổ Lễ (tỉnh NamHà). Quả chuông này không treo mà đặt trên mặt đất, giữasân chùa như một biểu tượng. Cái tiếng không, không tiếngấy là đủ sắc không rồi.Làm gì có nghề nào lại lấy mõ làm tên, nếu không có thằngmõ thì ai là người nối dân với quan khi làng có việc?Tại sao người ta không khắc những bài minh, những bài kinhtrên các nhạc cụ khác mà chỉ khắc trên chuông, trên khánh?Làm gì có dân tộc nào lại “lỏng”, lại “hỉ xả”, lại “phá chấp”như dân tộc Việt. Rất nhiều những ngôi đình ở miền Bắcdùng chính quả bom thời chiến tranh làm kẻng. Cũng quảbom ấy đã từng làm người ta sợ, thì nay nghe tiếng kẻngbom, mọi người lại thích, lại vui vẻ rủ nhau ra đình hội họp.Nếu chọn một nhạc cụ gần gũi nhất với người Việt thì nhấtđịnh đó là nhạc cụ - gõ chứ không phải hơi, dây hay phím.Điều đó cũng hợp lý thôi, dù là chuông, trống phách, khánh,mõ, kẻng hay gì đi nữa thì âm của nó cũng vừa đủ vang hếtchiều dài của làng. Mà ở nước Việt này thì tất cả đều ở làng,đình cũng làng, chùa cũng làng… Văn hóa, kinh tế, chính trịcũng phải bắt đầu từ làng. Gõ là tiếng của làng. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiếng làngTiếng làngBài viết của Họa sĩ Lê Thiết CươngKẻng bom chụp tại làng Diềm, Bắc Ninh. Ảnh: Lê ThiếtCươngNếu chọn một nhạc cụ gần gũi nhất với người Việt thì nhấtđịnh đó là nhạc cụ - gõ chứ không phải hơi, dây hay phím.Chùa nào cũng có gác chuông, có nhiều chùa có cả gác trống,nhiều chùa có khánh đá, khánh đồng, ấy là chưa kể bộchuông, mõ để tụng kinh.Trong âm nhạc, bắt buộc phải có ba độ là cao độ, trường độ,cường độ thì mới thành được giai điệu, thành được tiết tấu,thì mới thành nhạc.Tiếng khánh trầm bổng, tiếng chuông thì ngân nga ngắn dài,tiếng trống thì mạnh nhẹ. Tức là cũng đủ ba độ. Thế cònchuông mõ? Chắc đó là độ thứ tư, tâm độ?Bản thân tiếng chuông mõ đã là một thứ nhạc rồi, một thứkinh rồi. Tụng kinh thì phải có tiếng chuông, tiếng mõ. Phậtgiáo chú trọng đọc – nghe (tụng, niệm), không thể chỉ nhìnngắm kinh để thành Phật.Nhưng tại sao Phật giáo và Phật giáo Việt Nam lại chú trọngcác nhạc cụ của gõ mà không phải nhạc cụ nào đó của bộdây, bộ hơi hoặc phím? Có lẽ thế này, gõ tức là chủ về nhịpvà tiết tấu, hơi dây phím chủ về giai điệu. Tiết tấu hay giaiđiệu thì cũng chỉ là phương tiện thôi, mục đích cuối cùngphải là kiến tính, kiến tâm. Thế mà giai điệu thì dễ làm ngườita phân tâm. Tiếng của gõ, đánh thức hơn, giữ nhịp hơn, nhịptim, nhịp thở. Dễ hơn trong việc nối thân với tâm, điều hòathân và tâm. Ấy là chưa kể, tụng kinh đã là “hát nói” rồi, cầngì phải giai điệu nữa, chỉ cần chuông mõ cầm nhịp là đủ.Từ thế kỷ thứ II, những nhà sư Ấn Độ đã mang chuông mõ(bộ gõ) đến đây. Theo lẽ tự nhiên, nhập gia tùy tục, khách sẽnương theo chủ để cùng tồn tại. Người khách Phật giáo đãkết hợp với tín ngưỡng thờ tứ Pháp của gia chủ tạo ra một tínngưỡng – tôn giáo Phật giáo không Ấn không Hoa. Trongtiến trình hòa nhập với văn hóa bản địa của Phật giáo thuởban đầu ấy, dễ dàng một phần cũng là bởi người Việt đã cósẵn một truyền thống “gõ” khởi thủy là trống đồng rồi cồngchiêng của người Mường, người Tây Nguyên, đàn đá (cũnglà gõ), trống đất, trống gốm, trống chầu (trong ca trù)… Nhânnói về gõ trong ca trù, theo Vũ trung tùy bút của Phạm ĐìnhHổ, ca trù ở làng quê thì gõ là chính (trống, phách), chỉ cómỗi đàn đáy (dây) ngược lại với ca trù cung đình, nhiều loạiđàn dây và chỉ có một gõ. ưĐâu chỉ trong âm nhạc, sinh hoạt nào của người Việt (hội hè,đình đám, hiếu hỉ, lễ lạt) mà chả có gõ, có trống phách.Làm gì có nhạc cụ nào được chôn theo người chết như trống(những chiếc trống đồng nhỏ trong mộ của cư dân ĐôngSơn).Làm gì có nhạc cụ nào được biết ơn đến mức mang vào đìnhđể thờ như cái mõ bằng gỗ hình con cá trong các ngôi đình:đình Mông Phụ (thế kỷ 16), đình Thổ Hà (thế kỷ 17, tỉnh BắcGiang)… Như một cách để nhớ về gốc biển, gốc nước, gốcNam đảo của mình.Làm gì có quả chuông nào lại không cần phải gõ, không nhấtthiết phải kêu như quả chuông đồng ở chùa Cổ Lễ (tỉnh NamHà). Quả chuông này không treo mà đặt trên mặt đất, giữasân chùa như một biểu tượng. Cái tiếng không, không tiếngấy là đủ sắc không rồi.Làm gì có nghề nào lại lấy mõ làm tên, nếu không có thằngmõ thì ai là người nối dân với quan khi làng có việc?Tại sao người ta không khắc những bài minh, những bài kinhtrên các nhạc cụ khác mà chỉ khắc trên chuông, trên khánh?Làm gì có dân tộc nào lại “lỏng”, lại “hỉ xả”, lại “phá chấp”như dân tộc Việt. Rất nhiều những ngôi đình ở miền Bắcdùng chính quả bom thời chiến tranh làm kẻng. Cũng quảbom ấy đã từng làm người ta sợ, thì nay nghe tiếng kẻngbom, mọi người lại thích, lại vui vẻ rủ nhau ra đình hội họp.Nếu chọn một nhạc cụ gần gũi nhất với người Việt thì nhấtđịnh đó là nhạc cụ - gõ chứ không phải hơi, dây hay phím.Điều đó cũng hợp lý thôi, dù là chuông, trống phách, khánh,mõ, kẻng hay gì đi nữa thì âm của nó cũng vừa đủ vang hếtchiều dài của làng. Mà ở nước Việt này thì tất cả đều ở làng,đình cũng làng, chùa cũng làng… Văn hóa, kinh tế, chính trịcũng phải bắt đầu từ làng. Gõ là tiếng của làng. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tiếng làng lịch sử Việt Nam lễ hội việt nam văn hóa Việt bản sắc việt phong tục tập quánTài liệu có liên quan:
-
79 trang 435 2 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 162 0 0 -
69 trang 95 0 0
-
Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động mai táng: Thực trạng và một số kiến nghị hoàn thiện
11 trang 66 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 66 0 0 -
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 64 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 62 0 0 -
Ẩm thực trong văn học dân gian người Việt
11 trang 61 0 0 -
Văn hoá ẩm thực dân gian Mường
4 trang 58 0 0 -
11 trang 56 0 0