Danh mục tài liệu

Tổng luận Tổng quan hoạt động đổi mới sáng tạo tại khu vực Đông Nam Á

Số trang: 60      Loại file: pdf      Dung lượng: 2.06 MB      Lượt xem: 27      Lượt tải: 0    
Xem trước 6 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tổng luận phản ánh những bước phát triển kinh tế gần đây trong khu vực, đồng thời nhấn mạnh đặc biệt đến hoạt động đổi mới sáng tạo; cung cấp sơ đồ phác thảo định tính và định lượng kèm theo đánh giá về năng lực và động lực hiện tại về KH&CN và đổi mới sáng tạo trong khu vực Đông Nam Á, cộng với sự lưu thông các luồng tri thức bên trong và ngoài khu vực.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tổng luận Tổng quan hoạt động đổi mới sáng tạo tại khu vực Đông Nam Á Giới thiệu Đông Nam Á là một trong số những khu vực năng động nhất thế giới. Các nền kinh tế Đông Nam Á đang trải qua những thay đổi nhanh chóng và ngày càng hội nhập hơn vào các hệ thống tri thức và sản xuất của khu vực và toàn cầu. Việc tăng cường phát triển và đào sâu hơn nữa năng lực KH&CN và đổi mới sáng tạo sẽ mở ra những cơ hội mới cho các quốc gia Đông Nam Á, để họ có thể tối đa hóa lợi ích tạo ra từ những thay đổi bằng cách nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị, tạo nên sự khác biệt cho nền kinh tế và đóng góp vào tiến bộ KH&CN nhằm giải quyết các thách thức xã hội to lớn. Một sự hiểu biết tốt hơn về năng lực và động lực phát triển là điều thiết yếu đối với sự phát triển tương lai của các quốc gia Đông Nam Á. Dựa trên Báo cáo của OECD về Hệ thống đổi mới của các quốc gia Đông Nam Á xuất bản năm 2013, Cục Thông tin KH&CN Quốc gia biên soạn tổng luận mang tựa đề: 'TỔNG QUAN HOẠT ĐỘNG ĐỔI MỚI SÁNG TẠO TẠI KHU VỰC ĐÔNG NAM Á'. Tài liệu này là báo cáo tổng hợp phản ánh những bước phát triển kinh tế gần đây trong khu vực, đồng thời nhấn mạnh đặc biệt đến hoạt động đổi mới sáng tạo; cung cấp sơ đồ phác thảo định tính và định lượng kèm theo đánh giá về năng lực và động lực hiện tại về KH&CN và đổi mới sáng tạo trong khu vực Đông Nam Á, cộng với sự lưu thông các luồng tri thức bên trong và ngoài khu vực. Bằng việc nghiên cứu và chia sẻ các kết quả đánh giá về hệ thống đổi mới quốc gia của khu vực Đông Nam Á, tài liệu này có giá trị trong việc thúc đẩy học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau giữa các nước trong khu vực và giúp tăng cường sự hợp tác về KH&CN và đổi mới sáng tạo giữa các quốc gia Đông Nam Á và với các nước OECD. Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả. CỤC THÔNG TIN KH&CN QUỐC GIA 1 I. THÀNH TỰU PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở KHU VỰC ĐÔNG NAM Á 1.1. Tăng trưởng và phát triển Một trong số những khu vực năng động nhất thế giới Khu vực Đông Nam Á là một trong số những khu vực năng động nhất thế giới. Đánh giá triển vọng dài hạn về thành tích kinh tế của các khu vực trên thế giới cho thấy, tổng sản lượng đầu ra của cả khu vực Đông Nam Á đã đạt tỷ lệ tăng trưởng trung bình năm là 5,4% trong vòng khoảng ba thập kỷ. Về tốc độ tăng trưởng GDP, nơi duy nhất có tốc độ tăng trưởng vượt khu vực Đông Nam Á đó là khu vực Đông Á với tỷ lệ 8,6%, đây là nơi có các nền kinh tế năng động như Trung Quốc, với thành tích phát triển cao như Hàn Quốc là những động cơ tăng trưởng chủ yếu của khu vực. Trong những năm gần đây, với tỷ lệ tăng trưởng đạt 6,1%, khu vực Đông Nam Á đã trở nên năng động hơn các khu vực khác trên thế giới, như châu Mỹ Latinh, khu vực Bắc Mỹ hay châu Âu. Tỷ lệ tăng trưởng gia tăng mạnh đặc biệt vào những năm đầu thập kỷ 1990, nhưng cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á vào cuối những năm 1990 đã có những tác động sâu và kéo dài tới khu vực. Vào nửa cuối thập kỷ 2000, tăng trưởng trong khu vực Đông Nam Á đã trở nên chậm hơn so với khu vực năng động Đông Á. Tuy nhiên, GDP của Đông Nam Á hiện nay lớn hơn gấp 5 lần so với năm 1980 và hiện vẫn đang tăng trưởng với một tốc độ đáng kể. Tiến bộ cũng đạt được về GDP bình quân đầu người, về lĩnh vực này khu vực Đông Nam Á cũng vượt các khu vực phát triển trên thế giới và châu Mỹ Latinh. Năm 2011, GDP bình quân đầu người của khu vực Đông Nam Á tăng 2,4 lần so với năm 1980, trong khi GDP bình quân đầu người của khu vực Nam Á và Đông Á tăng tương ứng là 3,5 lần và 9 lần. Kể từ năm 1980, GDP bình quân của khu vực Đông Nam Á đã tăng trung bình năm là 2,9%. Tỷ lệ này là thấp nếu so với các khu vực Nam Á (4,1%) và Đông Á (7,4%). Mặc dù sự năng động của một số nền kinh tế mới nổi đang định hình lại cả nền kinh tế thế giới (OECD, 2012), những khác biệt đáng kể về thu nhập bình quân đầu người vẫn còn tồn tại bên trong khu vực và giữa các khu vực trên thế giới. Tại khu vực Bắc Mỹ, EU và các quốc gia phát triển châu Á - Thái Bình dương, mức sản lượng đầu ra bình quân đầu người vẫn cao hơn so với của các khu vực châu Á khác và cả Mỹ Latinh. Năm 2011, GDP bình quân đầu người tại Đông Á, Đông Nam Á và Nam Á đạt tương ứng là 3.309 USD, 1.858 USD và 809 USD. Gương điển hình của các quốc gia tiên phong thuộc khu vực Đông Á đã giúp kích hoạt tính năng động kế tiếp ở một số nước. Mặc dù không thể phủ nhận vai trò của các yếu tố khác, có thể nói tiến trình này đã bắt đầu từ giai đoạn sau Chiến tranh thế giới lần thứ II khi Nhật Bản thông qua công cuộc tái thiết sau chiến tranh và đã đạt được sự tăng trưởng kinh tế chưa từng thấy trước đó, điều này đã khơi mào nguồn cảm hứng và cũng làm tăng niềm khát vọng của nhiều quốc gia. Đặc biệt, kinh nghiệm của Nhật Bản được coi là ví dụ điển hình cho một số các quốc gia nhỏ hơn ở Đông Á, là những nước cố gắng noi theo chiến lược phát triển của Nhật Bản trong những năm 1960 và 2 1970 và làm thích nghi với hoàn cảnh và nhu cầu cụ thể của nước mình (Yusuf và Nabeshima, 2009). Tương tự, thành công gần đây hơn của Hàn Quốc và Trung Quốc truyền cảm hứng cho nhiều nước còn lạc hậu ngày nay. Trên thực tế, sự phát triển kinh tế nhanh chóng và mạnh mẽ của các 'con rồng châu Á' đã được quan sát kỹ lưỡng và được mô phỏng theo một vài khía cạnh bởi các nước trong và ngoài khu vực. Trong quá trình đó, bốn quốc gia với dân số lớn hơn nhiều so với bốn nền kinh tế mới công nghiệp hóa (NIE) đã nổi lên như một thế hệ thứ hai các con rồng châu Á, đó là: Inđônêxia, Malaixia, Thái Lan và Philippin ở một mức độ nhỏ hơn. Không giống như bốn con rồng đi đầu, các nước con rồng thế hệ thứ hai ở khu vực Đông Nam Á phụ thuộc mạnh vào nguồn tài nguyên và ít ưu tiên công nghiệp hóa. Các nước này áp dụng mô hình công nghiệp hóa và tăng trưởng nhờ vào xuất khẩu của các quốc gia đi trước, với lĩnh vực chế tạo được coi là độ ...

Tài liệu có liên quan: