Danh mục tài liệu

Trọn Bộ Lịch Sử Việt Nam - An Nam Chí Lược

Số trang: 0      Loại file: pdf      Dung lượng: 1.28 MB      Lượt xem: 19      Lượt tải: 0    
Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tài liệu tham khảo - Trọn Bộ Lịch Sử Việt Nam - An Nam Chí Lược
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Trọn Bộ Lịch Sử Việt Nam - An Nam Chí Lược Viện Đại Học HuếỦy Ban Phiên Dịch Sử Liệu Việt Nam 1961AN NAM CHÍ LƯỢC Soạn giả: LÊ TẮC Thế Kỷ 14 (1335)2 An Nam Chí Lược - Tựa Tựa sách: An Nam Chí Lược Năm Soạn giả: Lê Tắc 1335 Dịch giả: Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam 1960 Nhà xuất bản: Viện Đại Học Huế 1961Chuyển sang ấn bản điện tử bởi: Công Đệ, Doãn Vượng, Lê Bắc 2001 Điều hợp: Lê Bắc - bacle@hotmail.com 2001 3 An Nam Chí Lược - Tựa Lời Giới Thiệu Song song với công việc biên mục Châu bản triều Nguyễn, Ủy ban Phiên Dịch Sử Liệu Việt-Namđã lập một kế hoạch riêng để hiệu đính và phiên dịch các bộ sử Việt Nam. Theo kế hoạch dự định ấy,các phiên dịch viên trong Ủy ban đã tham khảo các truyền bản tàng trử tại các thư viện Nhật Bản, TrungHoa và Anh Quốc, làm xong một hiệu bản của bộ An Nam Chí Lược và hoàn thành một bản phiên dịchViệt văn. Nói về cuốn An Nam Chí Lược, ai ai cũng biết rõ soạn giả Lê Tắc là một tên phản bội với Tổquốc. Trong lúc nước nhà đang gặp ngoại xâm, xã tắc nguy cấp, nhân dân đau khổ, Lê Tắc cùng bọnTrần Kiện và Trần Ích Tắc, không những không chịu gắn sức phấn đấu để cứu nước cứu dân, trái lạinhẩn tâm và làm tôi địch. Hơn nữa, trong bộ An Nam Chí Lược, Lê Tắc quên mình là người Việt, dựa vàolập trường và quan điểm người Nguyên để soạn tập. Chẳng hạn, như những lời nịnh nọt a dua của soạngiả, những đoạn văn kiêu ngạo tự tôn tự đại trình bày trong các chiếu chỉ nhà Nguyên và trong các bàitựa các danh nhân hồi ấy, đều khiến cho chúng ta vô cùng uất ức và đau đớn. Sở dĩ Ủy ban lấy bộ An Nam Chí Lược làm công việc phiên dịch đầu tiên, là vì bộ ấy có lẽ là bộ sửxưa nhất do một cá nhân người Việt soạn ra, và gồm có nhiều sử liệu đáng quý có liên quan đến cổ sửvà trung sử Việt Nam, chứ không phải Ủy ban có chút định nào dung thứ những hành động và quanniệm sai lầm của soạn giả đối với tổ quốc. Nói khác, chúng tôi coi cuốn sách này là một sử liệu, là mộtđối tượng cho cuộc nghiên cứu sử học thuần túy, bởi vậy, thành thực muốn cung cấp một bộ hiệu bản vàbản dịch đáng tin cậy cho học giới mà thôi. Trong hai nghìn năm quốc sử, chúng ta không thể không công nhận rằng còn nhiều chỗ thiếusót, mơ hồ, đang chờ đợi sự cố gắng của sử gia Việt Nam, để bổ túc hoặc xác định lại. Vậy, điều cầnthiết cho nền sử học Việt Nam ngày nay là gây phong trào nghiên cứu theo phương pháp khoa học, nhấtlà về phương diện sưu tầm và khảo đính sử liệu, chúng ta nên tìm cách nâng đỡ và xúc tiến. Căn cứ vàoquan điểm ấy, tôi thành thực tin rằng bộ hiệu bản và bản dịch này là một thực hiện mới của nền sử họctại Việt Nam, và sẽ đem lại rất nhiều bổ ích cho công việc tìm tòi sự thực trong quốc sử. Huế, ngày 22 tháng 4 năm 1960 Viện Trưởng Viện Đại Học Huế L. M. Cao Văn Luận 4 An Nam Chí Lược - Quyển Đệ Nhất An-Nam Chí-Lược Quyển Đệ Nhất Cổ-Ái Đông-Sơn Lê-Tắc Biên Tống Tự Từ xưa nước An-Nam thông giao với Trung-Quốc, thời vua Chuyên-Húc, phía bắc đi tới U-Lăng,phía nam đi tới Giao-Chỉ. Vua Đế-Nghiêu sai Hy Hoà qua ở đất Nam-Giao, vua Thuấn sai Vũ qua Namyên-vỗ Giao-Chỉ. Qua đời Chu-Thành-Vương (1115-1079 trước công nguyên), họ Việt-Thường qua chínlần thông-ngôn, tới cống-hiến mà nói rằng: Trời không có gió bảo, không mưa dầm, ngoài biển khôngnổi sóng dữ đã ba năm nay, có lẽ ở Trung-Quốc có đấng thánh-nhân trị-vì, sao chẳng tới chầu?. Lúc bấygiờ, Chu-Công đặt bài ca, đánh đàn thuật chuyện họ Việt-Thường tới chầu: Ô hi ta ta! Phi Đán chi lực,Văn-Vương chi đức, nghĩa là: ôi ôi! vui thay, cảnh-tượng thái-bình không phải nhờ sức của Đán (tên củaChu-Công) mà là nhờ đức của vua Văn-Vương. Nước Việt-Thường, tức đất Cửa-Châu, ở phía nam Giao-Chỉ. Quyển Hán-Quan-Nghi của Ứng-Thiện chép rằng: trước tiên Trung-Quốc mở mang từ sóc(phương bắc), rồi sau tiến sang phương nam lấy làm cơ chỉ. Hiện nay, các sách viết chữ chỉ_____(cái nền) là viết sai. Nhà Tần (246-207 trước công nguyên) lấy Giao Chỉ làm Tượng-Quận; đến khi nhà Tần loạn thìĐô-uý quận Nam-hải là Triệu-Đà nổi binh đánh lấy hết các quận quốc, rồi tự lập làm vua. Khi ấy, Hán-Cao-Tổ sai Lục-Giả qua lập Đà làm Việt-Vương. Sau khi Cao-Tổ băn ...