
Xử lý xung đột đặc trưng trong một công ty
Số trang: 2
Loại file: doc
Dung lượng: 37.00 KB
Lượt xem: 2
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nếu trong môn quần vợt, Jimmy Connors và John McEnroe là những tay vợt cự phách và là kỳ phùng địch thủ của nhau thì trong kinh doanh cũng có những trận chiến thầm lặng nhưng không kém phần quyết liệt ngay trong nội bộ công ty.“Trong rất nhiều công ty, đội ngũ bán hàng và đội ngũ marketing cũng có những mối thù truyền kiếp như gia đình Romeo và Juliet” là đầu đề của một bài viết trên Harvard Business Review của ba cây bút Phil Kotler, Neil Rackham và Suj Krishnaswamy.......
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xử lý xung đột đặc trưng trong một công tyXử lý xung đột đặc trưng trong một công tyNếu trong môn quần vợt, Jimmy Connors và John McEnroe là những tay vợt cự phách vàlà kỳ phùng địch thủ của nhau thì trong kinh doanh cũng có những trận chiến thầm lặngnhưng không kém phần quyết liệt ngay trong nội bộ công ty.“Trong rất nhiều công ty, đội ngũ bán hàng và đội ngũ marketing cũng có những mối thù truyềnkiếp như gia đình Romeo và Juliet” là đầu đề của một bài viết trên Harvard Business Review củaba cây bút Phil Kotler, Neil Rackham và Suj Krishnaswamy.Sự xung đột dữ dội giữa hai lực lượng này xung quanh kết quả kinh doanh của công ty được ghinhận và nghiên cứu từ lâu. Theo giáo sư Benson Shapiro của Trường Thương mại Harvard thìtrở ngại lớn nhất trong kinh doanh ngày nay là bộ phận bán hàng và bộ phận marketing đượcchia “cai quản” những vùng đất khác nhau, họ thậm chí còn không nói chuyện với nhau.Kết quả nghiên cứu cho thấy những công ty có mối quan hệ giữa bộ phận bán hàng và bộ phậnmarketing gần gũi thì tỉ lệ thành công thường cao, nhưng có ít công ty đạt được kết quả hợp tácđó. Kotler, Rackham và Krishnaswamy chỉ ra rằng phí thâm nhập thị trường cao, vòng quay hànghóa kéo dài và chi phí kinh doanh cao là nguyên nhân dẫn đến sự căng thẳng trong mối quan hệgiữa hai bộ phận này.Sự xích mích giữa hai bộ phận có ảnh hưởng đến toàn bộ công ty theo hai cách:- Lãng phí nguồn lực, tài nguyên. Lãng phí nguồn lực là khi bộ phận marketing thực hiện cáccuộc nghiên cứu sản phẩm, sử dụng hàng mẫu có giá trị cao và các buổi huấn luyện cho cácnhân viên bán hàng nhưng bộ phận này không thể (hoặc không muốn) áp dụng trong công việchàng ngày.- Lãng phí cơ hội. Lãng phí cơ hội xảy ra khi nhân viên bán hàng không cung cấp thông tin vềcác khách hàng thường xuyên mua hoặc sử dụng dịch vụ của công ty, không giới thiệu cáckhách hàng tiềm năng cho bộ phận marketing.Cội nguồn của mối bất hòa này còn liên quan đến tiềm thức. Một bài báo trênMarketingProfs.com viết rằng “dường như có một hố ngăn cách vô hình nào đó giữa hai bộ phậnnày - họ tách bạch nhau trong mục tiêu, văn hóa, mối quan tâm và động lực cũng khác nhau”.Tờ Businessweek cũng có đề cập đến vấn đề này: “Nhân viên marketing thường mô tả nhânviên bán háng là những người tham lam và tự cao tự đại. Trong khi đối với nhân viên bán hàng,các nhân viên marketing là những người được bao bọc, che đậy kỹ và lầm lì, ít nói”.Thật ra, sự xung đột giữa hai bộ phận dường như là một nét văn hóa trong công ty và do hiểulầm nhiều hơn là ganh ghét nhau thật sự. Nhân viên bán hàng nói chung thường có xu hướngđộc lập, chủ động, mạo hiểm và tự tin. Nhân viên marketing thường là những người ăn mặc lịchsự, ra vẻ có học thức, vì vậy mà họ nghĩ mình thông thạo nhiều lĩnh vực, có cái nhìn bao quát vềmột vấn đề nào đó.Chính vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi nhân viên bán hàng thường ví nhân viên marketing như“những cái tháp ngà”, ngược lại nhân viên marketing xem nhân viên bán hàng như những ngườicứng đầu, vô tổ chức.Để giải quyết được xung đột có tính chất “truyền kiếp” này, những người quản lý hai bộ phậntrên nên:1. Thay đổi lối suy nghĩBộ phận marketing phải xem đội ngũ bán hàng như một khách hàng nội bộ, ngay cả khi tiếp xúcqua điện thoại hoặc internet. Nhân viên bán hàng là người tiếp cận trực tiếp với thị trường, tiếpxúc thường xuyên với khách hàng, nên họ thật sự là một nguồn cung cấp thông tin vô cùng quýgiá để các hoạt động marketing hiệu quả hơn.2. Xác định mục tiêu cho nhân viên bán hàngKhi thực hiện điều này, chắc chắn các nhân viên marketing sẽ nghe từ các nhân viên bán hàngnói “Chờ đã, chúng tôi đã làm điều đó rồi”. Nhân viên bán hàng được chia khu vực quản lý (cửahàng giá rẻ, chuỗi siêu thị, cửa hàng bán lẻ…) cũng giống như việc phân khúc thị trường mộtcách máy móc, thuần về lý thuyết nhưng lại không phù hợp cho việc phát triển kinh doanh chungcủa công ty.Định hướng cho các nhân viên bán hàng có nghĩa là giúp họ phân khúc thị trường một cách hợplý dựa trên những cơ hội phát triển tiềm năng cho công ty và từ những thông tin mà bộ phận bánhàng cung cấp, bộ phận marketing sẽ giúp bộ phận bán hàng dễ dàng phân loại khách hàngtiềm năng cũng như xu hướng phát triển của thị trường.3. Xác định mục tiêu chính cho bộ phận bán hàng dựa trên cơ sở dữ liệu hiện cóXa hơn nữa, bộ phận marketing phải chỉ cho bộ phận bán hàng thấy đặc điểm của từng cá nhânhoặc của nhóm khách hàng trong phân khúc như nơi ở, sở thích, mức thu nhập…Ví dụ đối vớimột công ty dược liệu thì việc đầu tiên của bộ phận marketinh là phân khúc thị trường và xácđịnh nhóm bác sĩ nào có thể tiếp cận được.Kế tiếp là tiến hành phân tích chọn mẫu để xác định nhóm bác sĩ nào thuộc phân khúc nào.Cuối cùng là in ra tên, địa chỉ, giá trị tiềm năng của nhóm bác sĩ đã được chọn, đưa cho phòngbán hàng để tiếp cận họ theo từng khu vực.4. Cung cấp cho bộ phận bán hàng nhiều giải pháp để thực hiện những mục tiêu khácnhauBộ phận marketing phải cung cấp cho bộ phận bán hàng những mẫu thông tin khách hàng đểgiữ chân khách hàng trung thành và thu hút khách hàng tiềm năng.Một điều hết sức thực tế là hầu như nhân viên bán hàng nào cũng tin sẽ bán được nhiều hơnnếu công ty giảm giá bán hoặc ít ra là cho họ quyền đàm phán giá với khách hàng. Đối với mỗimặt hàng đều có một khung giá, tuy nhiên, khách hàng có thể không biết hoặc cố tình khôngquan tâm đến thời gian vận chuyển hàng, phí dịch vụ khách hàng hay giá trị thương hiệu côngty, mà chỉ muốn có hàng với giá tốt nhất.Tùy thuộc vào từng ngành nghề, những khách hàng nhạy cảm với giá cả hàng hóa chỉ chiếm từ20% đến 40% khách hàng trên thị trường, có nghĩa là có từ 60% đến 80% khách hàng khôngbiết giá chính xác và có xu hướng trả cao hơn chứ không phải thấp hơn cho một sản phẩm hoặcdịch vụ đáp ứng những nhu cầu chính yếu của họ.Do đó, với mỗi phân khúc thị trường, bộ phận marketing cần xác định vấn đề, nhu cầu, trởngại…và đề ra những biện pháp giúp bộ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xử lý xung đột đặc trưng trong một công tyXử lý xung đột đặc trưng trong một công tyNếu trong môn quần vợt, Jimmy Connors và John McEnroe là những tay vợt cự phách vàlà kỳ phùng địch thủ của nhau thì trong kinh doanh cũng có những trận chiến thầm lặngnhưng không kém phần quyết liệt ngay trong nội bộ công ty.“Trong rất nhiều công ty, đội ngũ bán hàng và đội ngũ marketing cũng có những mối thù truyềnkiếp như gia đình Romeo và Juliet” là đầu đề của một bài viết trên Harvard Business Review củaba cây bút Phil Kotler, Neil Rackham và Suj Krishnaswamy.Sự xung đột dữ dội giữa hai lực lượng này xung quanh kết quả kinh doanh của công ty được ghinhận và nghiên cứu từ lâu. Theo giáo sư Benson Shapiro của Trường Thương mại Harvard thìtrở ngại lớn nhất trong kinh doanh ngày nay là bộ phận bán hàng và bộ phận marketing đượcchia “cai quản” những vùng đất khác nhau, họ thậm chí còn không nói chuyện với nhau.Kết quả nghiên cứu cho thấy những công ty có mối quan hệ giữa bộ phận bán hàng và bộ phậnmarketing gần gũi thì tỉ lệ thành công thường cao, nhưng có ít công ty đạt được kết quả hợp tácđó. Kotler, Rackham và Krishnaswamy chỉ ra rằng phí thâm nhập thị trường cao, vòng quay hànghóa kéo dài và chi phí kinh doanh cao là nguyên nhân dẫn đến sự căng thẳng trong mối quan hệgiữa hai bộ phận này.Sự xích mích giữa hai bộ phận có ảnh hưởng đến toàn bộ công ty theo hai cách:- Lãng phí nguồn lực, tài nguyên. Lãng phí nguồn lực là khi bộ phận marketing thực hiện cáccuộc nghiên cứu sản phẩm, sử dụng hàng mẫu có giá trị cao và các buổi huấn luyện cho cácnhân viên bán hàng nhưng bộ phận này không thể (hoặc không muốn) áp dụng trong công việchàng ngày.- Lãng phí cơ hội. Lãng phí cơ hội xảy ra khi nhân viên bán hàng không cung cấp thông tin vềcác khách hàng thường xuyên mua hoặc sử dụng dịch vụ của công ty, không giới thiệu cáckhách hàng tiềm năng cho bộ phận marketing.Cội nguồn của mối bất hòa này còn liên quan đến tiềm thức. Một bài báo trênMarketingProfs.com viết rằng “dường như có một hố ngăn cách vô hình nào đó giữa hai bộ phậnnày - họ tách bạch nhau trong mục tiêu, văn hóa, mối quan tâm và động lực cũng khác nhau”.Tờ Businessweek cũng có đề cập đến vấn đề này: “Nhân viên marketing thường mô tả nhânviên bán háng là những người tham lam và tự cao tự đại. Trong khi đối với nhân viên bán hàng,các nhân viên marketing là những người được bao bọc, che đậy kỹ và lầm lì, ít nói”.Thật ra, sự xung đột giữa hai bộ phận dường như là một nét văn hóa trong công ty và do hiểulầm nhiều hơn là ganh ghét nhau thật sự. Nhân viên bán hàng nói chung thường có xu hướngđộc lập, chủ động, mạo hiểm và tự tin. Nhân viên marketing thường là những người ăn mặc lịchsự, ra vẻ có học thức, vì vậy mà họ nghĩ mình thông thạo nhiều lĩnh vực, có cái nhìn bao quát vềmột vấn đề nào đó.Chính vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi nhân viên bán hàng thường ví nhân viên marketing như“những cái tháp ngà”, ngược lại nhân viên marketing xem nhân viên bán hàng như những ngườicứng đầu, vô tổ chức.Để giải quyết được xung đột có tính chất “truyền kiếp” này, những người quản lý hai bộ phậntrên nên:1. Thay đổi lối suy nghĩBộ phận marketing phải xem đội ngũ bán hàng như một khách hàng nội bộ, ngay cả khi tiếp xúcqua điện thoại hoặc internet. Nhân viên bán hàng là người tiếp cận trực tiếp với thị trường, tiếpxúc thường xuyên với khách hàng, nên họ thật sự là một nguồn cung cấp thông tin vô cùng quýgiá để các hoạt động marketing hiệu quả hơn.2. Xác định mục tiêu cho nhân viên bán hàngKhi thực hiện điều này, chắc chắn các nhân viên marketing sẽ nghe từ các nhân viên bán hàngnói “Chờ đã, chúng tôi đã làm điều đó rồi”. Nhân viên bán hàng được chia khu vực quản lý (cửahàng giá rẻ, chuỗi siêu thị, cửa hàng bán lẻ…) cũng giống như việc phân khúc thị trường mộtcách máy móc, thuần về lý thuyết nhưng lại không phù hợp cho việc phát triển kinh doanh chungcủa công ty.Định hướng cho các nhân viên bán hàng có nghĩa là giúp họ phân khúc thị trường một cách hợplý dựa trên những cơ hội phát triển tiềm năng cho công ty và từ những thông tin mà bộ phận bánhàng cung cấp, bộ phận marketing sẽ giúp bộ phận bán hàng dễ dàng phân loại khách hàngtiềm năng cũng như xu hướng phát triển của thị trường.3. Xác định mục tiêu chính cho bộ phận bán hàng dựa trên cơ sở dữ liệu hiện cóXa hơn nữa, bộ phận marketing phải chỉ cho bộ phận bán hàng thấy đặc điểm của từng cá nhânhoặc của nhóm khách hàng trong phân khúc như nơi ở, sở thích, mức thu nhập…Ví dụ đối vớimột công ty dược liệu thì việc đầu tiên của bộ phận marketinh là phân khúc thị trường và xácđịnh nhóm bác sĩ nào có thể tiếp cận được.Kế tiếp là tiến hành phân tích chọn mẫu để xác định nhóm bác sĩ nào thuộc phân khúc nào.Cuối cùng là in ra tên, địa chỉ, giá trị tiềm năng của nhóm bác sĩ đã được chọn, đưa cho phòngbán hàng để tiếp cận họ theo từng khu vực.4. Cung cấp cho bộ phận bán hàng nhiều giải pháp để thực hiện những mục tiêu khácnhauBộ phận marketing phải cung cấp cho bộ phận bán hàng những mẫu thông tin khách hàng đểgiữ chân khách hàng trung thành và thu hút khách hàng tiềm năng.Một điều hết sức thực tế là hầu như nhân viên bán hàng nào cũng tin sẽ bán được nhiều hơnnếu công ty giảm giá bán hoặc ít ra là cho họ quyền đàm phán giá với khách hàng. Đối với mỗimặt hàng đều có một khung giá, tuy nhiên, khách hàng có thể không biết hoặc cố tình khôngquan tâm đến thời gian vận chuyển hàng, phí dịch vụ khách hàng hay giá trị thương hiệu côngty, mà chỉ muốn có hàng với giá tốt nhất.Tùy thuộc vào từng ngành nghề, những khách hàng nhạy cảm với giá cả hàng hóa chỉ chiếm từ20% đến 40% khách hàng trên thị trường, có nghĩa là có từ 60% đến 80% khách hàng khôngbiết giá chính xác và có xu hướng trả cao hơn chứ không phải thấp hơn cho một sản phẩm hoặcdịch vụ đáp ứng những nhu cầu chính yếu của họ.Do đó, với mỗi phân khúc thị trường, bộ phận marketing cần xác định vấn đề, nhu cầu, trởngại…và đề ra những biện pháp giúp bộ ...
Tài liệu có liên quan:
-
Tổ chức event cho teen - chưa nhiều ý tưởng bứt phá
3 trang 331 0 0 -
13 lỗi thường gặp trong quản lý thay đổi
6 trang 314 0 0 -
Quản trị công ty gia đình tốt: Kinh nghiệm thành công của những doanh nghiệp lớn
7 trang 222 0 0 -
Mua bán, sáp nhập Doanh nghiệp ở Việt Nam (M&A)
7 trang 197 0 0 -
3 trang 197 0 0
-
Thay đổi cách quản lý như thế nào?
3 trang 194 0 0 -
5 trang 188 0 0
-
5 trang 186 0 0
-
Phần 3: Các công cụ cơ bản trong máy tính và truyền thông
14 trang 179 0 0 -
19 trang 179 0 0
-
Những nguyên tắc thành công khi đi xin việc
5 trang 164 0 0 -
CÔNG NGHỆ CHO PHÁT TRIỂN NHANH SẢN PHẨM
5 trang 164 0 0 -
Thủ Tục Chứng Nhận và Công Bố Thông Tin TWIC
4 trang 159 0 0 -
Làm thế nào để tăng hiệu quả của bộ phận bán hàng? (Phần đầu) Trong
6 trang 143 0 0 -
3 trang 120 0 0
-
Văn hoá doanh nghiệp - hãy cân nhắc thật kỹ khi chọn việc
3 trang 114 0 0 -
Bài 1: PUBLIC RELATION TRONG MARKETING - MIX
15 trang 107 0 0 -
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA
7 trang 101 0 0 -
Lịch sử hình thành thương mại điện tử
5 trang 96 0 0 -
Gíao trình giao dịch đàm phán kinh doanh. Phần 1
100 trang 94 0 0