Dịch tể học Virút Varicella Zoster gây ra hai thể bệnh riêng biệt. Nhiễm khuẩn tiên phát gây bệnh thủy đậu, một bệnh rất hay lây nhưng thường lành tính, xảy ra thành dịch ở những trẻ cảm thụ. Sự tái hoạt sau này của virút Varicella Zoster tiềm ẩn trong các hạch rễ lưng tạo nên một phát ban ngoài da khu trú gọi là zona (giời ăn). Các đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào chuyên biệt cho virút bị giảm sút, hoặc xảy ra tự nhiên như một hệ quả của tuổi tác, hoạt...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Zona (Kỳ 1) Zona (Kỳ 1) Dịch tể học Virút Varicella Zoster gây ra hai thể bệnh riêng biệt. Nhiễm khuẩn tiên phátgây bệnh thủy đậu, một bệnh rất hay lây nhưng thường lành tính, xảy ra thành dịchở những trẻ cảm thụ. Sự tái hoạt sau này của virút Varicella Zoster tiềm ẩn trongcác hạch rễ lưng tạo nên một phát ban ngoài da khu trú gọi là zona (giời ăn). Cácđáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào chuyên biệt cho virút bị giảm sút, hoặcxảy ra tự nhiên như một hệ quả của tuổi tác, hoạt động do các bệnh ức chế miễndịch hoặc do thuốc điều trị bệnh nội khoa, làm tăng nguy cơ bị zona. Trên 90% người lớn ở Hoa Kỳ có chứng cứ huyết thanh của việc nhiễmvirút Varicella Zoster và đều có nguy cơ bị zona (Choo PW, et al. 1995). Số mắcmới hàng năm của zona vào khoảng 1,5 – 3 trường hợp/1.000 người (Donahue JG,1995; Ragozzino MW, et al. 1982). Tỷ lệ mắc mới 2 trường hợp/1.000 người đồngnghĩa với trên 500.000 trường hợp mới hàng năm tại nước Mỹ. Tuổi đời tăng làyếu tố nguy cơ chủ chốt của bệnh zona, số trường hợp mắc mới của zona ở nhữngngười trên 75 tuổi vượt quá con số 10 trường hợp/1.000 người-năm. Nguy cơ mắczona trong suốt cuộc sống ước tính là 10 – 20% (Ragozzino MW, et al. 1982). Một yếu tố nguy cơ khác đã được xác định rõ của bệnh zona là tình trạngmiễn dịch qua trung gian tế bào bị thay đổi. Những bệnh nhân (BN) có các bệnh lývề u tân sinh (đặc biệt các ung thư tăng sinh tố chức lymphô), những người đangdùng thuốc ức chế miễn dịch (gồm cả corticosteroid), và những người nhận ghépcơ quan là những thành phần có nguy cơ tăng cao bị mắc zona. Tuy nhiên, việctìm kiếm một bệnh lý ung thư tiềm ẩn ở những người bề ngoài có vẻ khỏe mạnh bịzona, là không hợp lý lắm (Ragozzino MW, et al. 1982). Những người HIV (+) có tần số mắc bệnh cao hơn những người có huyếtthanh (-). Một nghiên cứu dài hạn cho thấy những người HIV (+) có tỷ lệ mắczona mới là 29,4/1000 người – năm. So với 2/1000 người – năm ở nhóm HIV (-)đối chứng (Buchbinder SP, et al. 1992). Vì zona có thể xảy ra ở những người đã bịnhiễm HIV không triệu chứng, xét nghiệm huyết thanh có thể thích hợp ở nhữngBN không có nguy cơ rõ ràng nào mắc zona (ví dụ những người có vẻ khỏe mạnhdưới 50 tuổi). Bệnh sử tự nhiên Trong thời kỳ tiền triệu của zona, BN bị nhức đầu, sợ ánh sáng và khó ở,nhưng hiếm khi có sốt. Bệnh khởi đầu với các cảm giác da bất thường khu trú, baoquát từ ngứa hoặc đau nhói đến đau dữ dội, có trước các tổn thương da từ một đếnnăm ngày, cơn đau với các cường độ khác nhau xảy ra hầu như ở tất cả BN bịzona cấp. Một phát ban hồng ban dát sẩn tiến triển thành các cụm mụn nước trong3 – 5 ngày sau và diễn tiến qua các giai đoạn hóa mũ, loét và đóng vảy. Lành tổnthương xảy ra trong khoảng thời gian từ 2 – 4 tuần, thường để lại sẹo và nhữngthay đổi màu da vĩnh viễn. Phát ban ngoài da thường chỉ ở một bên và không vượtquá đường giữa thân. Việc có tổn thương cùng lúc ở nhiều khoanh da (dermatome)không liền kế nhau hầu như không bao giờ xảy ra ở những BN có chức năng miễndịch toàn vẹn, mặc dù trong 20% trường hợp tổn thương có nhiễm trùng lên cáckhoanh da kế cận. Sự hiện diện của một ít tổn thương da lân cận cũng không có gìlà bất thường hoặc có tầm quan trọng về tiên lượng gì ở những BN có chức năngmiễn dịch đầy đủ. Chẩn đoán Biểu hiện da của zona đủ rõ để có chẩn đoán lâm sàng thường là chính xác.Tuy nhiên vị trí hoặc hình dạng của các tổn thương ngoài da có thể không điểnhình (đặc biệt ở những BN có hệ miễn dịch bị suy giảm), khi đó cần có sự xácđịnh của labô. Có thể nuôi cấy virút, nhưng virút Varicella Zoster yếu ớt và tươngđối khó hồi phục từ các mẫu bệnh phẩm của những tổn thương ở da. Định lượngmiễn dịch huỳnh quang trực tiếp nhạy cảm hơn nuôi cấy virút, chi phí thấp hơn vàcó thời gian trả lời kết quả xét nghiệm nhanh hơn (Dahl H, et al. 1997). Giống nhưnuôi cấy virút, định lượng miễn dịch huỳnh quang trực tiếp có thể phân biệt giữanhiễm virút Herpes Simplex và nhiễm virút Varicella Zoster. Kỹ thuật phản ứngkhuyếch đại chuỗi gien bằng enzym polymerase có ích trong việc tìm DNA củavirút Varicella Zoster trong dịch và các mô (Gilden DH, et al. 2000). Tổn thương Zona
Zona (Kỳ 1)
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 327.03 KB
Lượt xem: 3
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
bệnh zona bệnh học nội khoa bệnh da liễu bệnh ngoài da bệnh hoa liễuTài liệu có liên quan:
-
Tài liệu học tập Bệnh học nội khoa Y học cổ truyền
1503 trang 160 5 0 -
Giáo trình Điều trị học nội khoa: Phần 1 - NXB Quân đội Nhân dân
385 trang 82 0 0 -
7 trang 81 0 0
-
5 trang 76 1 0
-
Điều trị học nội khoa - châu ngọc hoa
403 trang 69 0 0 -
Bài giảng Giải phẫu học: Hệ tuần hoàn - ThS.BS. Nguyễn Hoàng Vũ
71 trang 58 1 0 -
Bệnh học nội khoa - Đại học Y Hà Nội
606 trang 41 0 0 -
Bệnh ký sinh trùng đường tiêu hoá (Kỳ 6)
6 trang 40 0 0 -
5 trang 38 0 0
-
BỆNH ĐẬU MÙA ( Smallpox ) (Kỳ 1)
5 trang 37 0 0