2 giống đu đủ mới
Số trang: 3
Loại file: pdf
Dung lượng: 143.22 KB
Lượt xem: 28
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tại phiên họp ngày 19/11/2010, Hội đồng KHCN (Bộ NN- PTNT) đã nghiệm thu, đánh giá cao kết quả đề tài “Nghiên cứu, chọn tạo giống đu đủ phục vụ ăn tươi và dùng cho chế biến công nghiệp” và đề nghị Bộ trưởng Bộ NN- PTNT ra quyết định công nhận tạm thời và cho phép đưa vào sản xuất thử 2 giống đu đủ mới VNĐĐ9 và VNĐĐ10. 2 giống đu đủ này do Khoa Nông học, Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội tuyển chọn, lai tạo từ nguồn giống bản địa và nhập nội. Thay mặt...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
2 giống đu đủ mới 2 giống đu đủ mới Tại phiên họp ngày 19/11/2010, Hội đồng KHCN (Bộ NN- PTNT) đã nghiệm thu, đánh giá cao kết quả đề tài “Nghiên cứu, chọn tạo giống đu đủ phục vụ ăn tươi và dùng cho chế biến công nghiệp” và đề nghị Bộ trưởng Bộ NN- PTNT ra quyết định công nhận tạm thời và cho phép đưa vào sản xuất thử 2 giống đu đủ mới VNĐĐ9 và VNĐĐ10. 2 giống đu đủ này do Khoa Nông học, Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội tuyển chọn, lai tạo từ nguồn giống bản địa và nhập nội. Thay mặt nhóm tác giả, PGS.TS Nguyễn Văn Hoan, chủ nhiệm đề tài cho biết: Ở nước ta cây đu đủ rất được coi trọng, được trồng nhiều vì có nhiều lợi ích- vừa dùng ăn tươi và làm nguyên liệu chế biến các loại nước giải khát, nước quả, pu rê, làm mứt như một loại cây ăn quả vừa có thể sử dụng như một loại rau trong đời sống hàng ngày hoặc chế biến thực phẩm. Tuy nhiên, việc mở rộng diện tích loại cây quan trọng này trong những năm gần đây gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân theo ông Hoan chính là chúng ta chưa có gi ống tốt có khả năng cho năng suất cao, chất lượng tốt, đáp ứng thị hiếu ngày càng cao của người tiêu dùng. Mặt khác hầu hết các giống đu đủ nhập nội đều bị nhiễm bệnh virus xoăn lá l à nguyên nhân làm cho cây nhanh tàn, gây thiệt hại lớn cho người trồng. Bên cạnh đó do giá hạt giống nhập nội rất cao, nhiều hộ nông dân không dám đầu t ư để phát triển. Với mục tiêu nhanh chóng tuyển chọn, lai tạo được một số giống đu đủ mới có những ưu điểm vượt trội so với giống nhập nội như: khả năng kháng bệnh tốt hơn, năng suất, chất lượng tương đương hoặc cao hơn, sản xuất hạt giống lai F1 với giá thành thấp hơn để cung cấp cho nông dân nhằm mở rộng diện tích, từ năm 2005 đến nay các nhà khoa học Bộ môn Di truyền và chọn tạo giống thuộc Khoa Nông học, Trường ĐH Nông nghiệp Hà Nội đã tập trung nghiên cứu, tuyển chọn, lai tạo và trồng thử nghiệm thành công 2 giống đu đủ mới đáp ứng những tiêu chí nói trên đặt tên là VNĐĐ9 và VNĐĐ10. Giống VNĐĐ9 là kết quả của tổ hợp lai giữa giống đu đủ Đài Loan quả dài với giống đu đủ bản địa được thu thập từ tỉnh Sóc Trăng; giống VNĐĐ10 được lai giữa giống đu đủ Trung Quốc quả dài với giống đu đủ bản địa của tỉnh Quảng Ninh. Đây là 2 giống tốt nhất trong số các tổ hợp lai triển vọng được đưa vào trồng thử nghiệm sản xuất từ tháng 11/2009 đến nay tại các tỉnh Lào Cai, Phú Thọ và Hà Nội đều sinh trưởng, phát triển tốt, tỏ ra thích nghi với điều kiện đất đai, khí hậu những nơi làm thí nghiệm. VNĐĐ9 có dạng quả tròn, khối lượng bình quân 1,34kg/qu ả, thịt quả đỏ đậm; VNĐĐ10 có dạng quả dài, khối lượng bình quân đạt 1,75kg/quả, thịt màu vàng tươi; Cả 2 giống mới được chọn tạo có nhiều ưu điểm vượt trội so với giống đu đủ Hồng Phi, một giống nhập nội của Đài Loan hiện đang được trồng nhiều ở n ước ta làm đối chứng: chất lượng tương đương (độ Brix từ 11,36-12,41, ăn có vị ngọt đậm); thấp cây, chiều cao đóng quả thấp thuận lợi cho chăm sóc và thu hoạch. Thời gian cho thu hoạch kéo dài khoảng 2 tháng, 15 ngày cho thu quả một đợt, năng suất tương đương hoặc cao hơn, 81,6 tấn/ha (VNĐĐ9), 115 tấn/ha (VNĐĐ10) so với Hồng Phi 73,6 tấn/ha. Cả 2 giống đều cho tỷ lệ cây cái và cây hữu tính rất cao, gần nh ư 100%; nhiễm rất nhẹ với virus đốm nhẫn lá, không nhiễm với virus khảm lá, thối cổ rễ, cháy lá do vi khuẩn và nhện trong khi giống Hồng Phi bị nhiễm rất nặng các bệnh này. KS. Nguyễn Thị Bích Hồng cùng nhóm nghiên cứu cho hay, năm 2010 anh Tiến ở xã Tinh Nhuệ, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ tham gia trồng 9 sào đu đủ mô hình hiện đã thu được trên 40 triệu đồng, bán với giá từ 5.000 đến 8.000 đồng/kg, giống dễ trồng, đầu tư ít mà thu lợi nhuận cao, hiện nông dân Thanh Sơn rất ưa chuộng và mong muốn có giống để mở rộng diện tích. Điều đặc biệt khiến các thành viên hội đồng nhất trí đánh giá cao kết quả của đề tài là các tác giả đã tiến hành sản xuất thử hạt giống lai F1 với chất l ượng cao, giá thành hạ nhiều so với giống nhập nội của Đ ài Loan (2,66 triệu đồng/khoảng 40 triệu đồng 1kg hạt giống), được coi là cơ sở thuận lợi để nước ta tiến tới chủ động sản xuất hạt giống thay thế cho giống nhập ngoại tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân mở rộng diện tích, tăng thêm thu nhập. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
2 giống đu đủ mới 2 giống đu đủ mới Tại phiên họp ngày 19/11/2010, Hội đồng KHCN (Bộ NN- PTNT) đã nghiệm thu, đánh giá cao kết quả đề tài “Nghiên cứu, chọn tạo giống đu đủ phục vụ ăn tươi và dùng cho chế biến công nghiệp” và đề nghị Bộ trưởng Bộ NN- PTNT ra quyết định công nhận tạm thời và cho phép đưa vào sản xuất thử 2 giống đu đủ mới VNĐĐ9 và VNĐĐ10. 2 giống đu đủ này do Khoa Nông học, Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội tuyển chọn, lai tạo từ nguồn giống bản địa và nhập nội. Thay mặt nhóm tác giả, PGS.TS Nguyễn Văn Hoan, chủ nhiệm đề tài cho biết: Ở nước ta cây đu đủ rất được coi trọng, được trồng nhiều vì có nhiều lợi ích- vừa dùng ăn tươi và làm nguyên liệu chế biến các loại nước giải khát, nước quả, pu rê, làm mứt như một loại cây ăn quả vừa có thể sử dụng như một loại rau trong đời sống hàng ngày hoặc chế biến thực phẩm. Tuy nhiên, việc mở rộng diện tích loại cây quan trọng này trong những năm gần đây gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân theo ông Hoan chính là chúng ta chưa có gi ống tốt có khả năng cho năng suất cao, chất lượng tốt, đáp ứng thị hiếu ngày càng cao của người tiêu dùng. Mặt khác hầu hết các giống đu đủ nhập nội đều bị nhiễm bệnh virus xoăn lá l à nguyên nhân làm cho cây nhanh tàn, gây thiệt hại lớn cho người trồng. Bên cạnh đó do giá hạt giống nhập nội rất cao, nhiều hộ nông dân không dám đầu t ư để phát triển. Với mục tiêu nhanh chóng tuyển chọn, lai tạo được một số giống đu đủ mới có những ưu điểm vượt trội so với giống nhập nội như: khả năng kháng bệnh tốt hơn, năng suất, chất lượng tương đương hoặc cao hơn, sản xuất hạt giống lai F1 với giá thành thấp hơn để cung cấp cho nông dân nhằm mở rộng diện tích, từ năm 2005 đến nay các nhà khoa học Bộ môn Di truyền và chọn tạo giống thuộc Khoa Nông học, Trường ĐH Nông nghiệp Hà Nội đã tập trung nghiên cứu, tuyển chọn, lai tạo và trồng thử nghiệm thành công 2 giống đu đủ mới đáp ứng những tiêu chí nói trên đặt tên là VNĐĐ9 và VNĐĐ10. Giống VNĐĐ9 là kết quả của tổ hợp lai giữa giống đu đủ Đài Loan quả dài với giống đu đủ bản địa được thu thập từ tỉnh Sóc Trăng; giống VNĐĐ10 được lai giữa giống đu đủ Trung Quốc quả dài với giống đu đủ bản địa của tỉnh Quảng Ninh. Đây là 2 giống tốt nhất trong số các tổ hợp lai triển vọng được đưa vào trồng thử nghiệm sản xuất từ tháng 11/2009 đến nay tại các tỉnh Lào Cai, Phú Thọ và Hà Nội đều sinh trưởng, phát triển tốt, tỏ ra thích nghi với điều kiện đất đai, khí hậu những nơi làm thí nghiệm. VNĐĐ9 có dạng quả tròn, khối lượng bình quân 1,34kg/qu ả, thịt quả đỏ đậm; VNĐĐ10 có dạng quả dài, khối lượng bình quân đạt 1,75kg/quả, thịt màu vàng tươi; Cả 2 giống mới được chọn tạo có nhiều ưu điểm vượt trội so với giống đu đủ Hồng Phi, một giống nhập nội của Đài Loan hiện đang được trồng nhiều ở n ước ta làm đối chứng: chất lượng tương đương (độ Brix từ 11,36-12,41, ăn có vị ngọt đậm); thấp cây, chiều cao đóng quả thấp thuận lợi cho chăm sóc và thu hoạch. Thời gian cho thu hoạch kéo dài khoảng 2 tháng, 15 ngày cho thu quả một đợt, năng suất tương đương hoặc cao hơn, 81,6 tấn/ha (VNĐĐ9), 115 tấn/ha (VNĐĐ10) so với Hồng Phi 73,6 tấn/ha. Cả 2 giống đều cho tỷ lệ cây cái và cây hữu tính rất cao, gần nh ư 100%; nhiễm rất nhẹ với virus đốm nhẫn lá, không nhiễm với virus khảm lá, thối cổ rễ, cháy lá do vi khuẩn và nhện trong khi giống Hồng Phi bị nhiễm rất nặng các bệnh này. KS. Nguyễn Thị Bích Hồng cùng nhóm nghiên cứu cho hay, năm 2010 anh Tiến ở xã Tinh Nhuệ, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ tham gia trồng 9 sào đu đủ mô hình hiện đã thu được trên 40 triệu đồng, bán với giá từ 5.000 đến 8.000 đồng/kg, giống dễ trồng, đầu tư ít mà thu lợi nhuận cao, hiện nông dân Thanh Sơn rất ưa chuộng và mong muốn có giống để mở rộng diện tích. Điều đặc biệt khiến các thành viên hội đồng nhất trí đánh giá cao kết quả của đề tài là các tác giả đã tiến hành sản xuất thử hạt giống lai F1 với chất l ượng cao, giá thành hạ nhiều so với giống nhập nội của Đ ài Loan (2,66 triệu đồng/khoảng 40 triệu đồng 1kg hạt giống), được coi là cơ sở thuận lợi để nước ta tiến tới chủ động sản xuất hạt giống thay thế cho giống nhập ngoại tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân mở rộng diện tích, tăng thêm thu nhập. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
kỹ thuật trồng trọt kinh nghiệm nuôi trồng tài liệu nông nghiệp kỹ thuật trồng đu đủ kỹ thuật tạo giống đu đủ giống đu đủTài liệu có liên quan:
-
6 trang 109 0 0
-
Đặc Điểm Sinh Học Của Sò Huyết
5 trang 72 0 0 -
Giáo trình Hệ thống canh tác: Phần 2 - PGS.TS. Nguyễn Bảo Vệ, TS. Nguyễn Thị Xuân Thu
70 trang 71 0 0 -
Thuyết trình nhóm: Ứng dụng công nghệ chín chậm vào bảo quản trái cây
44 trang 64 0 0 -
Quy trình bón phân hợp lý cho cây ăn quả
2 trang 63 0 0 -
Báo cáo thực tập tổng quan về cây rau cải xanh
9 trang 60 0 0 -
Giáo trình hình thành ứng dụng phân tích chất lượng nông sản bằng kỹ thuật điều chỉnh nhiệt p4
10 trang 56 0 0 -
8 trang 56 0 0
-
Một số giống ca cao phổ biến nhất hiện nay
4 trang 55 0 0 -
4 trang 53 0 0