Âm nhạc dân tộc Việt
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 94.97 KB
Lượt xem: 20
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong âm nhạc Việt Nam không phải chỉ có một số giai điệu có sẵn rồi người đời sau chỉ đặt lời để làm thành một bài nhạc mới .
Truyền thống dân ca Quan Họ ở tỉnh Bắc Ninh (cách Hà nội vài mươi cây số) từ ngàn xưa tới nay cho thấy một sự phong phú về sáng tác bài bản sau mỗi kỳ tranh tài vì theo truyền thống này phải sáng tác bài mới để mới có hy vọng thắng giải sau một cuộc thi hát . Do đó , từ một số bài cổ ,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Âm nhạc dân tộc Việt Âm nhạc dân tộc Việt Trong âm nhạc Việt Nam không phải chỉ có một số giai điệu có sẵn rồi người đời sau chỉ đặt lời để làm thành một bài nhạc mới . Truyền thống dân ca Quan Họ ở tỉnh Bắc Ninh (cách Hà nội vài mươi cây số) từ ngàn xưa tới nay cho thấy một sự phong phú về sáng tác bài bản sau mỗi kỳ tranh tài vì theo truyền thống này phải sáng tác bài mới để mới có hy vọng thắng giải sau một cuộc thi hát . Do đó , từ một số bài cổ , số bài mới đã lên tới gần 1.000 bài . Viện âm nhạc Hà nội đã xuất bản cách đây hai năm một quyển sách ghi thành nốt nhạc cả mấy trăm bài cho thấy sự phong phú và óc sáng tạo của người dân quê . Ngoài ra Viện âm nhạc Hà nội đã tàng trữ gần cả 100.000 bài hát dân gian thu vào băng nhựa từ hơn 40 năm và trong tương lai rất gần có thể nghe được qua hệ thống xếp loại vi tính (data base). Trong dân ca có rất nhiều điệu Lý, Hò (cả mấy trăm điệu tùy theo vùng , địa phương rải rác khắp Bắc Trung Nam) . Nhiều quyển sách về Lý và Hò đã được nhà nghiên cứu Lư Nhất Vũ viết thành sách . Trong cổ nhạc miền Nam , còn được gọi là đàn tài tử, trong vòng hơn 100 năm , từ một số bài bản cố định của Ca Huế đưa vào Nam , số bài bản đã tăng thật nhanh . Ngay trong cãi lương , bài bản đã được sáng tác theo các loại tuồng : tuồng tàu, tuồng la mã, tuồng Nhựt, tuồng Ấn, tuồng xã hội, tuồng kiếm hiệp, tuồng hồ quảng , vv… Tính ra cũng hơn 100 bài được viết ra trong thế kỷ 20 . Đặc biệt l à bản Vọng cổ là một sáng tác đặc thù của miền Nam . Từ bài « Dạ cổ hoài lang » nhịp 2 do ông Sáu Lầu viết ra vào năm 1918 đã được biến chế ra nhịp 4, rồi nhịp 8, 16 (do cố nghệ sĩ Năm Nghĩa hát trong thập niên 30) , 32 (do cố nghệ sĩ Út Trà Ôn được mệnh danh là vua Vọng cổ trình bày đầu thập niên 50) .Sau này có một số nghệ sĩ thử nhịp 64, 128 nhưng không mấy được quần chúng ưa thích . Nếu muốn sáng tác một ca khúc tân nhạc vẫn mang màu sắc dân tộc và đừng bị nhạc Tây phương hay nhạc Á châu khác ảnh hưởng tới thì điều trước tiên là người viết nhạc phải có một căn bản vững chắc về nhạc cổ dân tộc và phải am tường các thang âm điệu thức Việt Nam . Phải có số vốn căn bản đó thì mới có thể tránh khỏi bị rơi vào thế giới nhạc ngoại Nắm vững thang âm điệu thức là như thế nào ? Trong thang âm Việt Nam hoàn toàn chỉ có ngũ cung ( 5 nốt nhạc trong một bát độ) Có 5 thang âm không bán cung căn bản : 1. Do – Re – Mi- Sol – La – Do 2. Do – Re – Fa – Sol – La – Do 3. Do – Re – Fa – Sol – Sib – Do 4. Do – Mib – Fa – Sol – Sib – Do 5. Do – Mib – Fa – Lab – Sib – Do Ngoài ra còn có những thang âm đặc thù như thang âm vọng cổ Do – Mi b+ - Fa – Sol – La – Do Thang âm Sa Mạc Do – Mib+ - Fa – Sol – Sib – Do Trong nhạc sắc tộc Gia Rai , Ba-Na vùng Cao nguyên Trung phần có một thang âm ngũ cung có bán cung Do – Mi – Fa – Sol – Si – Do Về điệu thức phải biết rõ thế nào là điệu Bắc, điệu Nam , các hơi Xuân, Đảo, Ai, Oán, Nhạc , vv…để diễn tả những lúc vui, buồn, sầu muộn, đau đớn, thư thái , vv… Rồi phải biết thêm về chuyển hệ như thế nào , tức là phối hợp hai thang âm ngũ cung trong một bài nhạc để làm cho dòng nhạc thêm khởi sắc mà không lạc vào nhạc Tây phương . Điều chót phải nhớ là muốn hấp thụ tất cả những điểm nêu trên đây là phải nghe nhạc dân tộc thật nhiều . Càng nghe nhiều thì các giai điệu cổ truyền mới bắt đầu thấm vào người, nhập vào huyết quản , thì lúc đó sáng tác nhạc mới có màu sắc nhạc dân tộc rất dễ dàng . Một số nhạc phẩm của Phạm Duy thoát từ dân ca như các ca khúc trong “Con Đường Cái Quan”, các bản “Em Bé Quê”, “Vợ Chồng Quê”, “Bả Mẹ Quê” , “Tình Ca”, “Ngày Trở Về”, vv.. các nhạc phẩm của Xuân Lôi Xuân Tiên như “Khúc Hát Ân Tình” (hay còn gọi là “Tình Bắc Duyên Nam”), của Trịnh Hưng như “Lối Về Xóm Nhỏ”, “Em Yêu”, ba bài nhạc “Hòn Vọng Phu” của Lê Thương , “Ai Ra Xứ Huế” của Duy Khánh, vv….GS TS Trần Văn Khê đã phổ nhạc trên bài thơ “Đi Chơi Chùa Hương” của nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp hoàn toàn dựa trên thang âm ngũ cung . Vài dòng giải thích làm cách nào có thể viết một bài nhạc không bị lai căng . ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Âm nhạc dân tộc Việt Âm nhạc dân tộc Việt Trong âm nhạc Việt Nam không phải chỉ có một số giai điệu có sẵn rồi người đời sau chỉ đặt lời để làm thành một bài nhạc mới . Truyền thống dân ca Quan Họ ở tỉnh Bắc Ninh (cách Hà nội vài mươi cây số) từ ngàn xưa tới nay cho thấy một sự phong phú về sáng tác bài bản sau mỗi kỳ tranh tài vì theo truyền thống này phải sáng tác bài mới để mới có hy vọng thắng giải sau một cuộc thi hát . Do đó , từ một số bài cổ , số bài mới đã lên tới gần 1.000 bài . Viện âm nhạc Hà nội đã xuất bản cách đây hai năm một quyển sách ghi thành nốt nhạc cả mấy trăm bài cho thấy sự phong phú và óc sáng tạo của người dân quê . Ngoài ra Viện âm nhạc Hà nội đã tàng trữ gần cả 100.000 bài hát dân gian thu vào băng nhựa từ hơn 40 năm và trong tương lai rất gần có thể nghe được qua hệ thống xếp loại vi tính (data base). Trong dân ca có rất nhiều điệu Lý, Hò (cả mấy trăm điệu tùy theo vùng , địa phương rải rác khắp Bắc Trung Nam) . Nhiều quyển sách về Lý và Hò đã được nhà nghiên cứu Lư Nhất Vũ viết thành sách . Trong cổ nhạc miền Nam , còn được gọi là đàn tài tử, trong vòng hơn 100 năm , từ một số bài bản cố định của Ca Huế đưa vào Nam , số bài bản đã tăng thật nhanh . Ngay trong cãi lương , bài bản đã được sáng tác theo các loại tuồng : tuồng tàu, tuồng la mã, tuồng Nhựt, tuồng Ấn, tuồng xã hội, tuồng kiếm hiệp, tuồng hồ quảng , vv… Tính ra cũng hơn 100 bài được viết ra trong thế kỷ 20 . Đặc biệt l à bản Vọng cổ là một sáng tác đặc thù của miền Nam . Từ bài « Dạ cổ hoài lang » nhịp 2 do ông Sáu Lầu viết ra vào năm 1918 đã được biến chế ra nhịp 4, rồi nhịp 8, 16 (do cố nghệ sĩ Năm Nghĩa hát trong thập niên 30) , 32 (do cố nghệ sĩ Út Trà Ôn được mệnh danh là vua Vọng cổ trình bày đầu thập niên 50) .Sau này có một số nghệ sĩ thử nhịp 64, 128 nhưng không mấy được quần chúng ưa thích . Nếu muốn sáng tác một ca khúc tân nhạc vẫn mang màu sắc dân tộc và đừng bị nhạc Tây phương hay nhạc Á châu khác ảnh hưởng tới thì điều trước tiên là người viết nhạc phải có một căn bản vững chắc về nhạc cổ dân tộc và phải am tường các thang âm điệu thức Việt Nam . Phải có số vốn căn bản đó thì mới có thể tránh khỏi bị rơi vào thế giới nhạc ngoại Nắm vững thang âm điệu thức là như thế nào ? Trong thang âm Việt Nam hoàn toàn chỉ có ngũ cung ( 5 nốt nhạc trong một bát độ) Có 5 thang âm không bán cung căn bản : 1. Do – Re – Mi- Sol – La – Do 2. Do – Re – Fa – Sol – La – Do 3. Do – Re – Fa – Sol – Sib – Do 4. Do – Mib – Fa – Sol – Sib – Do 5. Do – Mib – Fa – Lab – Sib – Do Ngoài ra còn có những thang âm đặc thù như thang âm vọng cổ Do – Mi b+ - Fa – Sol – La – Do Thang âm Sa Mạc Do – Mib+ - Fa – Sol – Sib – Do Trong nhạc sắc tộc Gia Rai , Ba-Na vùng Cao nguyên Trung phần có một thang âm ngũ cung có bán cung Do – Mi – Fa – Sol – Si – Do Về điệu thức phải biết rõ thế nào là điệu Bắc, điệu Nam , các hơi Xuân, Đảo, Ai, Oán, Nhạc , vv…để diễn tả những lúc vui, buồn, sầu muộn, đau đớn, thư thái , vv… Rồi phải biết thêm về chuyển hệ như thế nào , tức là phối hợp hai thang âm ngũ cung trong một bài nhạc để làm cho dòng nhạc thêm khởi sắc mà không lạc vào nhạc Tây phương . Điều chót phải nhớ là muốn hấp thụ tất cả những điểm nêu trên đây là phải nghe nhạc dân tộc thật nhiều . Càng nghe nhiều thì các giai điệu cổ truyền mới bắt đầu thấm vào người, nhập vào huyết quản , thì lúc đó sáng tác nhạc mới có màu sắc nhạc dân tộc rất dễ dàng . Một số nhạc phẩm của Phạm Duy thoát từ dân ca như các ca khúc trong “Con Đường Cái Quan”, các bản “Em Bé Quê”, “Vợ Chồng Quê”, “Bả Mẹ Quê” , “Tình Ca”, “Ngày Trở Về”, vv.. các nhạc phẩm của Xuân Lôi Xuân Tiên như “Khúc Hát Ân Tình” (hay còn gọi là “Tình Bắc Duyên Nam”), của Trịnh Hưng như “Lối Về Xóm Nhỏ”, “Em Yêu”, ba bài nhạc “Hòn Vọng Phu” của Lê Thương , “Ai Ra Xứ Huế” của Duy Khánh, vv….GS TS Trần Văn Khê đã phổ nhạc trên bài thơ “Đi Chơi Chùa Hương” của nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp hoàn toàn dựa trên thang âm ngũ cung . Vài dòng giải thích làm cách nào có thể viết một bài nhạc không bị lai căng . ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
văn hóa việt nam lịch sử việt nam sự phát triển của việt nam nguồn gốc nước việt nam hình thành nước việt namTài liệu có liên quan:
-
Đề tài 'Tìm hiểu thực trạng việc sống thử của sinh viên hiện nay'
13 trang 393 0 0 -
Bài tiểu luận: Phật giáo và sự ảnh hưởng ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
18 trang 282 1 0 -
Tiểu luận: Văn hóa ăn uống của người Hàn
21 trang 200 0 0 -
Tiểu luận: Giới thiệu chung về không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
10 trang 164 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 162 0 0 -
Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam - Trần Quốc Vương (chủ biên)
31 trang 137 0 0 -
189 trang 137 0 0
-
Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam: Phần 1 - NXB ĐH Huế
99 trang 135 0 0 -
Tìm hiểu Việt Nam và Nhật Bản trong thế giới Đông Á: Phần 2
97 trang 118 0 0 -
Truyền thống văn hóa & phương pháp xây dựng văn hóa dân tộc: Phần 1
88 trang 112 0 0