Danh mục tài liệu

Các mô hình quy hoạch khu nhà ở công nhân khu công nghiệp Hà Nội

Số trang: 14      Loại file: pdf      Dung lượng: 1.56 MB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tác giả cũng phân tích và chỉ rõ tính đồng bộ của từng mô hình, khả năng kết hợp các mô hình, việc phát triển theo giai đoạn và vai trò của các bên tham gia trong mô hình để từ đó làm căn cứ lựa chọn cho từng khu công nghiệp.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các mô hình quy hoạch khu nhà ở công nhân khu công nghiệp Hà Nội Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng, ĐHXDHN, 2024, 18 (4V): 45–58 CÁC MÔ HÌNH QUY HOẠCH KHU NHÀ Ở CÔNG NHÂN KHU CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI Lê Lan Hươnga,∗, Nguyễn Cao Lãnha , Nguyễn Thùy Tranga , Nguyễn Thị Vân Hươnga a Khoa Kiến trúc và Quy hoạch, Trường Đại học Xây dựng Hà Nội, 55 đường Giải Phóng, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 17/6/2024, Sửa xong 19/8/2024, Chấp nhận đăng 21/8/2024Tóm tắtGiải quyết thiếu hụt về nhà ở công nhân các khu công nghiệp là một vấn đề thời sự cấp thiết của nhiều địaphương trên cả nước. Thành phố Hà Nội hiện cũng đang đối mặt với vấn đề này, khi số lượng nhà ở công nhânmới chỉ đạt khoảng 10% nhu cầu. Việc làm rõ các mô hình quy hoạch các khu nhà ở công nhân, trên cơ sở đólựa chọn mô hình phù hợp để phát triển trên bối cảnh thực tiễn của từng khu công nghiệp là rất cần thiết. Dựatrên phương pháp tổng hợp, phân tích các tư liệu pháp lý và các số liệu thực tiễn được thu thập từ khảo sát thựcđịa tại các khu công nghiệp và khu nhà ở công nhân Hà Nội, nhóm nghiên cứu đã đánh giá thực trạng và đưara các mô hình quy hoạch khu nhà ở cho công nhân. Tác giả cũng phân tích và chỉ rõ tính đồng bộ của từngmô hình, khả năng kết hợp các mô hình, việc phát triển theo giai đoạn và vai trò của các bên tham gia trong môhình để từ đó làm căn cứ lựa chọn cho từng khu công nghiệp.Từ khoá: công nhân; khu công nghiệp; nhà ở công nhân; mô hình quy hoạch; mô hình ở.PLANNING MODELS FOR WORKER HOUSING AREAS IN HANOI INDUSTRIAL PARKSAbstractSolving the shortage of housing for workers in industrial zones is an urgent current issue in many localitiesacross the country. Hanoi city is also currently facing this problem when the number of stable accommodationsfor workers only reaches about 10% of demand. It is indispensable to clarify the planning models for workerhousing areas to choose the appropriate model for development in the practical context of each industrial park.Based on synthesizing and analyzing legal documents and practical data collected from field surveys in industrialparks and worker housing areas in Hanoi, the research assessed the current situation and proposed models forplanning housing areas for workers. The authors also analyze and point out the synchronization of each model,the ability to combine models, the phased development, and the roles of the parties involved in the model toserve as a basis for selection for each industrial park.Keywords: workers; industrial park; worker housing; planning model; housing model. https://doi.org/10.31814/stce.huce2024-18(4V)-04 © 2024 Trường Đại học Xây dựng Hà Nội (ĐHXDHN)1. Đặt vấn đề Phát triển các khu công nghiệp (KCN) đem lại nhiều lợi ích như: tạo ra một môi trường tốt hơncho hoạt động sản xuất tập trung, tạo các cực tăng trưởng bên ngoài thành phố, tối đa hóa cơ sở hạtầng và tiện ích sự đầu tư, giảm các vấn đề ô nhiễm môi trường trong đô thị [1]. Các KCN còn là độnglực cho phát triển kinh tế địa phương, tăng tỷ lệ đô thị hóa [2, 3]. Nhưng mặt khác, các KCN tạo sựtập trung lao động rất lớn, mà chủ yếu là lao động nhập cư, dẫn đến những thiếu hụt trầm trọng về nhàở. Ở KCN một số nước, như Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc, công nhân ở ký túc xá của nhà máy hoặccăn hộ cho thuê được cung cấp bởi các doanh nghiệp bất động sản [1]. Tuy nhiên, ở nhiều KCN khác,lao động vẫn phải tự tìm kiếm chỗ ở, thông thường thuê của tư nhân gần KCN để giảm chi phí đi lại.∗ Tác giả đại diện. Địa chỉ e-mail: huongll@huce.edu.vn (Hương, L. L.) 45 Hương, L. L., và cs. / Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựngTheo nghiên cứu của tổ chức JICA năm 2016 về hiện trạng lao động và nhà ở công nhân tại một sốquốc gia Đông Nam Á, mặc dù nhà ở công nhân (NOCN) đã trở thành vấn đề được quan tâm nhiềunhất tại nhiều quốc gia, cho đến nay vẫn chưa có quy định cụ thể về bên chịu trách nhiệm cung cấpNOCN [4]. Điều này cũng có thể thấy trong quá trình phát triển KCN tại Việt Nam. Theo số liệu Bộ kế hoạchđầu tư, tính đến cuối năm 2023 cả nước có 414 KCN [5], trong đó, tỷ lệ lao động có chỗ ở ổn định chỉchiếm khoảng 30% [6]. Riêng tại Hà Nội, hiện có 09 KCN đã thành lập, 07 KCN với tổng diện tích1.188,7 ha đã đầu tư xong hạ tầng và lấp đầy cơ bản 100% đất công nghiệp. Số lao động tính đến thờiđiểm đầu năm 2024 là 166.945 người, trong đó khoảng 128.000 người có nhu cầu nhà ở [7]. Trong sốđó, chỉ có 3 KCN có NOCN, mới đáp ứng hơn 12.000 chỗ ở (tương đương 10% nhu cầu) [8]. Phầnđông lao động KCN vẫn đang phải thuê nhà trong các khu nhà trọ phát triển tự phát lân cận KCN.Điều kiện sống tồi tàn đã để lại những tác động tiêu cực đến môi trường làm việc và đào tạo của ngườilao động [9]. Việc thiếu thốn trong điều kiện nhà ở, tạo nên những vấn đề sức khỏe của công nhânnhập cư [10, 11]. Các khu ở thiếu đồng bộ, thiếu không gian công cộng, hạn chế khả năng phát triểncác nguồn lực con người [12, 13]. Định hướng phát triển các KCN trên địa bàn thành phố Hà Nội đến năm 2045 theo Điều chỉnhQuy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065, dự kiến phát triển thêm4.073,58 ha (bao gồm 13 KCN xây dựng mới và mở rộng 02 KCN) [7]. Số lao động KCN dự báo lênđến 974.000 người, trong đó có khoảng 795.000 người (tương đương 77% lao động) có nhu cầu nhàở [8]. Có thể thấy, việc quy hoạch, xây dựng các khu NOCN cho các KCN Hà Nội không được giảiquyết sẽ đặt Thành phố đối mặt với những vấn đề lớn hơn trong tương lai. Trong 15 năm qua, đã có nhiều văn bản pháp luật đã được thông qua để giải quyết nhu cầu NOCNcác KCN: Nghị định số 66/2009/QĐ-TT yêu cầu nhà đầu tư KCN đến năm 2015 phải đáp ứng 50%nhu cầu thuê nhà của người lao động [1 ...