Cải lương, nghệ thuật sân khấu truyền thống Nam bộ Việt Nam
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 140.85 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tuy sanh sau đẻ muộn, so với Hát Chèo, Hát Bội (hát tuồng), Hát Cải lương trong một thời gian rất ngắn không hơn 80 năm đã đi một bước rất dài, đi sâu vào trong lòng người dân Nam bộ và đã trở thành một truyền thống vững chắc trong kịch nghệ Việt Nam.
Một bộ môn nghệ thuật được coi là "truyền thống" khi nào bộ môn ấy :
1.
Do người Việt sáng tạo trên đất nước Việt Nam cho người Việt Nam. Đã được cha truyền, con nối từ thế hệ này qua thế hệ khác ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cải lương, nghệ thuật sân khấu truyền thống Nam bộ Việt Nam Cải lương, nghệ thuật sân khấu truyền thống Nam bộ Việt Nam Tuy sanh sau đẻ muộn, so với Hát Chèo, Hát Bội (hát tuồng), Hát Cải lương trong một thời gian rất ngắn không hơn 80 năm đã đi một bước rất dài, đi sâu vào trong lòng người dân Nam bộ và đã trở thành một truyền thống vững chắc trong kịch nghệ Việt Nam. Một bộ môn nghệ thuật được coi là truyền thống khi nào bộ môn ấy : Do người Việt sáng tạo trên đất nước Việt Nam cho người Việt Nam. 1. Đã được cha truyền, con nối từ thế hệ này qua thế hệ khác 2. Đã chịu thử thách của thời gian 3. Hiện nay vẫn còn tồn tại và được người Việt Nam thưởng thức 4. 1. Do người Việt sáng tạo trên đất nước Việt Nam cho người Việt Nam. Dựa trên ý nghĩa Hán Việt của từ Cải lương chúng ta thấy cải lương là sửa đổi cho trở nên tốt hơn. Thực vậy, cải lương được thay đổi từ Hát Bội mà người ta gọi là Cải lương tuồng cổ. Người nghệ sĩ cải lương có cách múa, hát, mặc xiêm y giống như một sân khấu Hát Bội. Đây là sự thay đổi nhẹ nhàng, là khởi đầu của Cải lương. Cải lương là đổi cho đẹp hơn. Sân khấu đổi mới. Có màn nhung phía trước sân khấu. Có décor fixe (bức 1. phông có vẽ nhà cửa hoặc núi rừng tuỳ theo cảnh ở trong tuồng) và nhiều cánh gà vẽ những cảnh cung đình, hay rừng núi v.v… Đề tài kịch bản : không phải chỉ lấy trong lịch sử Trung quốc hay Việt 2. Nam, mà còn lấy trong các tiểu thuyết hay những cốt chuyện do tác giả kịch bản đặt ra Nghệ thuật biểu diễn : Thật mà đẹp. Không còn ước lệ như trong hát bội. 3. Dùng giọng thật, tự nhiên . Không có những giọng mé, giọng hầu v.v… Dàn nhạc : Đàn kìm, đờn cò, đờn xến, ống sáo, ống tiêu. Sau nầy có thêm 4. đờn tranh và từ mấy chục năm nay đàn Ghi ta phím lõm, và gần đây có cả synthetiseur. Trước kia khi đờn màn có kèn saxophone clarinettevà trống phương Tây. Bài bản : Các bản đờn trong truyền thống tài tử : Bài Bắc nhỏ, các bài 5. Nam, Xuân Ai Đảo, đặc biệt bài Dạ cổ hoài lang và sau nầy trở thành Vọng cổ. Và sau này có thêm những bài hơi Quảng , và những bản nhạc mới sáng tác theo phong cách cổ như loại Trăng Thu Dạ Khúc. Theo một số nhà nghiên cứu, tiền thân của Cải Lương là nhạc tài tử biến thành ca ra bộ tại nhà Ông Cai tổng Tống Hữu Định (Ông Phó 12) tại Vĩnh Long năm 1917. Khi ca bài Tứ đại Oán với tích Bùi Kiệm thi rớt trở về, Cô Ba Định, vai Nguyệt Nga, ông Giáo Diệp Minh Ký đóng vai Bùi Kiệm, ông Giáo Du, vai Bùi ông, vừa ca vừa ra bộ. Và từ đó đã sanh ra loại Ca ra bộ và sau nầy trở thành Hát cải lương . Theo tài liệu của cháu Mai Mỹ Duyên, Trưởng phòng nghiên cứu của Sở Văn Hoá Thông tin Tiền Giang, Ca ra bộ đ ã do Nhạc sư Nguyễn Tống Triều ( ông Tư Triều) tại Cái Thia chế ra từ năm 1916. Năm 192O Gánh Tân Thinh có 2 câu đối treo trước sân khấu : Cải cách hát ca theo tiến bộ Lương truyền tuồng tích sánh văn minh 2. Đã được cha truyền, con nối từ thế hệ này qua thế hệ khác Thật vậy, nhìn lại nghệ thuật sân khấu Cải lương, chúng ta không thể nào quên những nghệ sĩ lão thành có mặt từ đầu bộ môn nghệ thuật này, như kép Bảy Thông, đào Năm Thoàn trong gánh Cải Lương của Thày Năm Tú ở tại Mỹ Tho, như Năm Châu, Phùng Há, Năm Phỉ, Bảy Nam, Bảy Nhiêu, Ba Vân, Út Trà Ôn ... Những người nghệ sĩ này đã truyền nghề cho một thế hệ không kém nổi tiếng mà ngày này không ai là không biết đến như NSUT Kim Cương, nghệ sĩ Duy Lân, nghệ sĩ Thành Được, nghệ sĩ Út Bạch Lan, nghệ sĩ Hữu Phước, NSND Thanh Tòng, NS Việt Hùng ... Sau nữa còn có NS Hùng Cường, NSUT Bạch Tuyết, NS Thanh Sang, NSUT Ngọc Giàu, NSUT Lệ Thuỷ, NS Mộng Tuyền, NS Đỗ Quyên, NS Hoài Thanh ... Và tiếp theo sau là thế hệ mới ngày nay người ta không thể quên có một Hương Lan (con gái nghệ sĩ Hữu Phước), Vũ Linh, Tài Linh, Ngọc Huyền, Kim Tử Long ... Bây giờ đã có Quế Trân (con gái nghệ sĩ Thanh Tòng), Thi Trang, Lê Tứ ... trong số nghệ sĩ Lão thành và trẻ tuổi mà chúng tôi không thể kể hết. Như thế, Cải lương quả đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cải lương cũng đã được thay đổi qua nhiều thế hệ, chịu thử thách với thời gian, với nhiều thử nghiệm mà hình thức cải lương đứng ở vị trí nào phù hợp thì được tồn tại và phát triển, còn hình thức cải lương nào không phù hợp, không được quần chúng ủng hộ thì bị đào thải. Đó chúng tôi gọi là tánh chất Động và Mở của cải lương ..... Điểm sơ qua một số gánh hát Cải lương được thành lập từ những ngày đầu và những phong cách dàn dựng sân khấu, biên soạn kịch bản, chúng ta thấy rằng Cải lương đã có một bề dày lịch sử : 1920: Ba gánh Tân Thinh, Văn Hí ban, Tập ích Ban 1925: Phước Cương 1927: Phụng Hảo (Cô 7 Phùng Há) và Gánh Đồng Nữ Ban của Bà Trần Ngọc Viện (rất đặc biệt vì gánh hát diễn viên toàn là n ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cải lương, nghệ thuật sân khấu truyền thống Nam bộ Việt Nam Cải lương, nghệ thuật sân khấu truyền thống Nam bộ Việt Nam Tuy sanh sau đẻ muộn, so với Hát Chèo, Hát Bội (hát tuồng), Hát Cải lương trong một thời gian rất ngắn không hơn 80 năm đã đi một bước rất dài, đi sâu vào trong lòng người dân Nam bộ và đã trở thành một truyền thống vững chắc trong kịch nghệ Việt Nam. Một bộ môn nghệ thuật được coi là truyền thống khi nào bộ môn ấy : Do người Việt sáng tạo trên đất nước Việt Nam cho người Việt Nam. 1. Đã được cha truyền, con nối từ thế hệ này qua thế hệ khác 2. Đã chịu thử thách của thời gian 3. Hiện nay vẫn còn tồn tại và được người Việt Nam thưởng thức 4. 1. Do người Việt sáng tạo trên đất nước Việt Nam cho người Việt Nam. Dựa trên ý nghĩa Hán Việt của từ Cải lương chúng ta thấy cải lương là sửa đổi cho trở nên tốt hơn. Thực vậy, cải lương được thay đổi từ Hát Bội mà người ta gọi là Cải lương tuồng cổ. Người nghệ sĩ cải lương có cách múa, hát, mặc xiêm y giống như một sân khấu Hát Bội. Đây là sự thay đổi nhẹ nhàng, là khởi đầu của Cải lương. Cải lương là đổi cho đẹp hơn. Sân khấu đổi mới. Có màn nhung phía trước sân khấu. Có décor fixe (bức 1. phông có vẽ nhà cửa hoặc núi rừng tuỳ theo cảnh ở trong tuồng) và nhiều cánh gà vẽ những cảnh cung đình, hay rừng núi v.v… Đề tài kịch bản : không phải chỉ lấy trong lịch sử Trung quốc hay Việt 2. Nam, mà còn lấy trong các tiểu thuyết hay những cốt chuyện do tác giả kịch bản đặt ra Nghệ thuật biểu diễn : Thật mà đẹp. Không còn ước lệ như trong hát bội. 3. Dùng giọng thật, tự nhiên . Không có những giọng mé, giọng hầu v.v… Dàn nhạc : Đàn kìm, đờn cò, đờn xến, ống sáo, ống tiêu. Sau nầy có thêm 4. đờn tranh và từ mấy chục năm nay đàn Ghi ta phím lõm, và gần đây có cả synthetiseur. Trước kia khi đờn màn có kèn saxophone clarinettevà trống phương Tây. Bài bản : Các bản đờn trong truyền thống tài tử : Bài Bắc nhỏ, các bài 5. Nam, Xuân Ai Đảo, đặc biệt bài Dạ cổ hoài lang và sau nầy trở thành Vọng cổ. Và sau này có thêm những bài hơi Quảng , và những bản nhạc mới sáng tác theo phong cách cổ như loại Trăng Thu Dạ Khúc. Theo một số nhà nghiên cứu, tiền thân của Cải Lương là nhạc tài tử biến thành ca ra bộ tại nhà Ông Cai tổng Tống Hữu Định (Ông Phó 12) tại Vĩnh Long năm 1917. Khi ca bài Tứ đại Oán với tích Bùi Kiệm thi rớt trở về, Cô Ba Định, vai Nguyệt Nga, ông Giáo Diệp Minh Ký đóng vai Bùi Kiệm, ông Giáo Du, vai Bùi ông, vừa ca vừa ra bộ. Và từ đó đã sanh ra loại Ca ra bộ và sau nầy trở thành Hát cải lương . Theo tài liệu của cháu Mai Mỹ Duyên, Trưởng phòng nghiên cứu của Sở Văn Hoá Thông tin Tiền Giang, Ca ra bộ đ ã do Nhạc sư Nguyễn Tống Triều ( ông Tư Triều) tại Cái Thia chế ra từ năm 1916. Năm 192O Gánh Tân Thinh có 2 câu đối treo trước sân khấu : Cải cách hát ca theo tiến bộ Lương truyền tuồng tích sánh văn minh 2. Đã được cha truyền, con nối từ thế hệ này qua thế hệ khác Thật vậy, nhìn lại nghệ thuật sân khấu Cải lương, chúng ta không thể nào quên những nghệ sĩ lão thành có mặt từ đầu bộ môn nghệ thuật này, như kép Bảy Thông, đào Năm Thoàn trong gánh Cải Lương của Thày Năm Tú ở tại Mỹ Tho, như Năm Châu, Phùng Há, Năm Phỉ, Bảy Nam, Bảy Nhiêu, Ba Vân, Út Trà Ôn ... Những người nghệ sĩ này đã truyền nghề cho một thế hệ không kém nổi tiếng mà ngày này không ai là không biết đến như NSUT Kim Cương, nghệ sĩ Duy Lân, nghệ sĩ Thành Được, nghệ sĩ Út Bạch Lan, nghệ sĩ Hữu Phước, NSND Thanh Tòng, NS Việt Hùng ... Sau nữa còn có NS Hùng Cường, NSUT Bạch Tuyết, NS Thanh Sang, NSUT Ngọc Giàu, NSUT Lệ Thuỷ, NS Mộng Tuyền, NS Đỗ Quyên, NS Hoài Thanh ... Và tiếp theo sau là thế hệ mới ngày nay người ta không thể quên có một Hương Lan (con gái nghệ sĩ Hữu Phước), Vũ Linh, Tài Linh, Ngọc Huyền, Kim Tử Long ... Bây giờ đã có Quế Trân (con gái nghệ sĩ Thanh Tòng), Thi Trang, Lê Tứ ... trong số nghệ sĩ Lão thành và trẻ tuổi mà chúng tôi không thể kể hết. Như thế, Cải lương quả đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cải lương cũng đã được thay đổi qua nhiều thế hệ, chịu thử thách với thời gian, với nhiều thử nghiệm mà hình thức cải lương đứng ở vị trí nào phù hợp thì được tồn tại và phát triển, còn hình thức cải lương nào không phù hợp, không được quần chúng ủng hộ thì bị đào thải. Đó chúng tôi gọi là tánh chất Động và Mở của cải lương ..... Điểm sơ qua một số gánh hát Cải lương được thành lập từ những ngày đầu và những phong cách dàn dựng sân khấu, biên soạn kịch bản, chúng ta thấy rằng Cải lương đã có một bề dày lịch sử : 1920: Ba gánh Tân Thinh, Văn Hí ban, Tập ích Ban 1925: Phước Cương 1927: Phụng Hảo (Cô 7 Phùng Há) và Gánh Đồng Nữ Ban của Bà Trần Ngọc Viện (rất đặc biệt vì gánh hát diễn viên toàn là n ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
văn hóa việt nam lịch sử việt nam sự phát triển của việt nam nguồn gốc nước việt nam hình thành nước việt namTài liệu có liên quan:
-
Đề tài 'Tìm hiểu thực trạng việc sống thử của sinh viên hiện nay'
13 trang 393 0 0 -
Bài tiểu luận: Phật giáo và sự ảnh hưởng ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
18 trang 282 1 0 -
Tiểu luận: Văn hóa ăn uống của người Hàn
21 trang 199 0 0 -
Tiểu luận: Giới thiệu chung về không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
10 trang 163 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 162 0 0 -
Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam - Trần Quốc Vương (chủ biên)
31 trang 137 0 0 -
189 trang 137 0 0
-
Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam: Phần 1 - NXB ĐH Huế
99 trang 134 0 0 -
Tìm hiểu Việt Nam và Nhật Bản trong thế giới Đông Á: Phần 2
97 trang 118 0 0 -
Truyền thống văn hóa & phương pháp xây dựng văn hóa dân tộc: Phần 1
88 trang 112 0 0