Danh mục tài liệu

Dân tộc H'mong

Số trang: 2      Loại file: doc      Dung lượng: 43.50 KB      Lượt xem: 5      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tên gọi khác :Mông Đơ (Mông Trắng), Mông Lềnh (Mông Hoa), Mông Sí (Mông Đỏ), Mông Đú (Mông Đen), Mông Súa (Mông Mán). Nhóm ngôn ngữ Mèo – Dao Dân số 558.000 người.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dân tộc Hmong Dân tộc HMông Tên gọi khác :Mông Đơ (Mông Trắng), Mông Lềnh (Mông Hoa), Mông Sí (MôngĐỏ), Mông Đú (Mông Đen), Mông Súa (Mông Mán). Nhóm ngôn ngữ Mèo – Dao Dân số 558.000 người. Cư trú Cư trú tập trung ở miền núi vùng cao thuộc các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, LàoCai, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng, Nghệ An Đặc điểm kinh tế Nguồn sống chính của đồng bào Mông là làm nương rẫy du canh, trồng ngô, trồnglúa ở một vài nơi có nương ruộng bậc thang. Cây lương thực chính là ngô và lúanương, lúa mạch. Ngoài ra còn trồng lanh để lấy sợi dệt vải và trồng cây dược liệu.Chăn nuôi của gia đình người Mông có trâu, bò, ngựa, chó, gà. Xưa kia người Môngquan niệm: Chăn nuôi là việc của phụ nữ, kiếm thịt trong rừng là việc của đàn ông.Tổ chức cộng đồng Đồng bào Mông cho rằng những người cùng dòng họ là anh em cùng tổ tiên, có thểđẻ và chết trong nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau trong cuộc sống, cưu mangnhau trong nguy nan. Mỗi dòng họ cư trú quây quần thành một cụm, có một trưởng họđảm nhiệm công việc chung. Hôn nhân gia đình Hôn nhân của người Mông theo tập quán tự do kén chọn bạn đời. Những ngườicùng dòng họ không lấy nhau. Người Mông có tục háy pù, tức là trong trường hợptrai gái yêu nhau, cha mẹ thuận tình nhưng kinh tế khó khăn, trai gái hò hẹn nhau tạimột địa điểm. Từ địa điểm đó bạn trai dắt tay bạn gái về làm vợ. Vợ chồng ngườiMông rất ít bỏ nhau, họ sống với nhau hòa thuận, cùng làm ăn, cùng lên nương, xuốngchợ và đi hội hè... Văn hóa Tết cổ truyền của người Mông tổ chức vào tháng 12 dương lịch. Trong 3 ngày tết,họ không ăn rau xanh. Nam nữ thanh niên vui xuân thường thổi khèn gọi bạn. Nhạc cụ của người Mông có nhiều loại khèn và đàn môi. Sau một ngày lao độngmệt mỏi, thanh niên dùng khèn, đàn môi gọi bạn tình, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống,của quê hương, đất nước. Nhà cửa Nhà có những đặc trưng riêng. Nhà thường ba gian không có chái. Bộ khung bằng gỗ, vì kéo kết cầu đơn giản, chủ yếu là ba cột có một xà ngang képhoặc hai xà ngang, một trên một dưới Về tổ chức mặt bằng sinh hoạt sinh hoạt: khá thống nhất giữa mọi nhà. Nhà ba gian:gian chính giữa giáp vách hậu bao giờ cũng là nơi đặt bàn thờ tổ tiên. Gian này còn lànơi dành cho ăn uống hằng ngày. Một gian đầu hồi dành cho sinh hoạt của các thànhviên nam và khách nam. Ơở đây thường có bếp phụ. Còn gian đầu hồi bên kia dànhcho sinh hoạt của nữ, đồng thời cũng là nơi đặt bếp chính.Bếp của người Mèo thuộc loại bếp kín - bếp lò - một sản phẩm của phương Bắc.Chuồng gia súc đặt trước mặt nhà Riêng nhà người Mèo ở Thuận Châu và Mộc Châu, Sơn La lại có đặc trưng riêng.Vẫn là nhà đất nhưng làm theo hình thức nóc của người Thái Đen. Nóc hình mai rùanhưng không có khau cút. Bộ khung nhà, có người cũng làm theo kiểu Thái. Duy cócách bố trí trong nhà còn giữ lại hình thức cổ truyền của người Mèo. Trang phục Quần áo của người Mông chủ yếu may bằng vải lanh tự dệt. Đậm đà tính cách tộcngười trong tạo hình và trang trí với kỹ thuật đa dạng. Trang phục nam Hmông độc đáo khác nhiều tộc người trong khu vực; trang phụcnữ khó lẫn lộn với các tộc khác bởi phong cách tạo dáng và trang trí công phu, kết hợpkỹ thuật nhuộm, vẽ sáp ong, thêu, ghéo, dệt hoa văn với kiểu váy rộng và đẹp. + Trang phục nam Nam thường mặc áo cánh ngắn ngang hoặc dưới thắt lưng, thân hẹp, ống tay hơirộng. Aáo nam có hai loại: năm thân và bốn thân. Loại bốn thân xẻ ngực, hai túi trên,hai túi dưới. Loại năm thân xẻ nách phải dài quá mông. Loại bốn thân thường khôngtrang trí loại năm thân được trang trí những đường vằn ngang trên ống tay. Quần namgiới là loại chân què ống rất rộng so với các tộc trong khu vực. Đầu thường chít khăn,có nhóm đội mũ xung quanh có đính những hình tròn bạc chạm khắc hoa văn, có khimang vòng bạc cổ, có khi không mang. + Trang phục nữ Người HMông có nhiều nhóm khác nhau, trang phục nữ các nhóm cũng có sự khácbiệt. Tuy nhiên nhìn chung có thể thấy phụ nữ Hmông thường mặc áo bốn thân, xẻngực không cài nút, gấu áo không khâu hoặc cho vào trong váy. Ôống tay áo thườngtrang trí hoa văn những đường vằn ngang từ nách đến cửa tay, đường viền cổ và nẹphai thân trước được trang trí viền vải khác màu (thường là đỏ và hoa văn trên nềnchàm). Phụ nữ Hmông còn dùng loại áo xẻ nách phải trang trí cổ, hai vai xuống ngựcgiữa và cửa ống tay áo. Phía sau gáy thường được đính miệng và trang trí hoa văn dàyđặc bằng chỉ ngũ sắc. Váy phụ nữ Hmông là loại váy kín, nhiều nếp gấp, rộng, khixòe ra có hình tròn. Váy là một tiêu chuẩn nhiều người đã dựa vào để phân biệt cácnhóm Hmông (Hóa, Xanh, Trắng, Đen... ). Đó là các loại váy trắng, váy đen, váy in hoa,vẽ sáp ong kết hợp thêu. Váy được mang trên người với chiếc thắt lưng vải được thêutrang trí ở đoạn giữa. Khi mặc váy thường mang theo tạp dề. Tạp dề mang trướcbụng phủ xuống chân là giao thoa giữa miếng vải hình tam giác và chữ nhật; phầntrang trí hoa văn là miếng vải hình tam giác cân phía trên, miếng hình chữ nhật là màuchàm đen, kích thước tùy từng bộ phận người Hmông. Phụ nữ thường để tóc dài quấnquanh đầu, có một số nhóm đội khăn quấn thành khối cao trên đầu. Đồ trang sức baogồm khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, nhẫn. ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu có liên quan: