Danh mục tài liệu

Dân tộc Mường

Số trang: 2      Loại file: doc      Dung lượng: 42.00 KB      Lượt xem: 22      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Dân tộc Mường:Tên gọi khác :Mol, Mual, Moi, Moi bi, Au tá, Ao táNhóm ngôn ngữ:Việt - MườngDân số:914.600 người.Cư trú:Cư trú ở nhiều tỉnh phía Bắc, nhưng tập trung đông nhất ở Hòa Bình và các huyệnmiền núi tỉnh Thanh Hóa.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dân tộc Mường Dân tộc Mường Tên gọi khác :Mol, Mual, Moi, Moi bi, Au tá, Ao tá Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường Dân số 914.600 người. Cư trú Cư trú ở nhiều tỉnh phía Bắc, nhưng tập trung đông nhất ở Hòa Bình và các huyệnmiền núi tỉnh Thanh Hóa. Đặc điểm kinh tế Đồng bào Mường sống định canh định cư ở miền núi, nơi có nhiều đất sản xuất,gần đường giao thông, thuận tiện cho việc làm ăn. Người Mường làm ruộng từ lâuđời. Lúa nước là cây lương thực chủ yếu. Trước đây, đồng bào trồng lúa nếp nhiềuhơn lúa tẻ và gạo nếp là lương thực ăn hàng ngày. Nguồn kinh tế phụ đáng kể của giađình người Mường là khai thác lâm thổ sản như nấm hương, mộc nhĩ, sa nhân, cánhkiến, quế, mật ong, gỗ, tre, nứa, mây, song... Nghề thủ công tiêu biểu của ngườiMường là dệt vải, đan lát, ươm tơ. Nhiều phụ nữ Mường dệt thủ công với kỹ nghệkhá tinh xảo. Tổ chức cộng đồng Xưa kia, hình thái tổ chức xã hội đặc thù của người Mường là chế độ lang đạo, cácdòng họ lang đạo (Đinh, Quách, Bạch, Hà) chia nhau cai quản các vùng. Đứng đầu mỗimường có các lang cun, dưới lang cun có các lang xóm hoặc đạo xóm, cai quản mộtxóm. Hôn nhân gia đình Tục cưới xin của người Mường gần giống như người Kinh (chạm ngõ, ăn hỏi, xincưới và đón dâu) khi trong nhà có người sinh nở, đồng bào rào cầu thang chính bằngphên nứa. Khi trẻ em lớn khoảng một tuổi mới đặt tên. Tục lệ ma chay Khi có người chết, tang lễ được tổ chức theo nghi thức nghiêm ngặt. Văn hóa Đồng bào Mường có nhiều ngày hội quanh năm: Hội xuống đồng (Khung mùa), hộicầu mưa (tháng 4), lễ rửa lá lúa (tháng7, 8 âm lịch) lễ cơm mới... Kho tàng văn nghệ dân gian của người Mường khà phong phú, có các thể loại thơdài, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví đúm, tục ngữ. Người Mường còn có hát ru em, đồnggiao, hát đập hoa, hát đố, hát trẻ con chơi... Cồng là nhạc cụ đặc sắc của đồng bàoMường, ngoài ra còn nhị, sáo trống, khèn lù. Người Mường ở Vĩnh Phú còn dùng ốngnứa gõ vào những tấm gỗ trên sàn nhà, tạo thành những âm thanh để thưởng thức gọilà đâm đuống. Nhà cửa Nhà người Mường có những đặc điểm riêng :nhà thường ba gian hai chái. Bộkhung với vì kèo kết cấu đơn giản. Đặc trưng ở cái kèo có pà wặc (cái cựa) đè lên câyđòn tay cái để đỡ kèo khỏi bị tụt. Nhà có chái nhưng không có vì kèo chái như nhàngười Việt. Chỗ dựa của bộ xương mái là nhờ vào hai cây pắp cal và một cây léo hè,đầu gác lên thanh giằng hai kèo gần chỏm kèo. Mặt bằng sinh hoạt có điểm giống nhà người Việt: nhà cũng có qui định có tínhước lệ: Nếu chia nhà theo chiều ngang: phần nhà dành cho sinh hoạt của nữ gọi làbên trong. Phần dành cho sinh hoạt của nam giới gọi là bên ngoài. Và, nếu chia nhàtheo chiều dọc, nửa nhà phía sau (nơi đặt bàn thờ tổ tiên) gọi là bên trên. Còn nửakia gọi là bên dưới. Một đặc trưng nữa là hình thức cấu tạo của bếp: bếp được đặttrong một cái khung gỗ hình chữ nhật. Bống góc của cái khung này dựng bốn cột làmgiá đỡ các dàn (dựa) bếp. một trong hai cột giáp vách bao giờ cũng buộc một cái chumnhỏ để đựng mẻ (người Mường rất ưa các món ăn có vị chua). Ghế đặt xung quanhnhà bếp là ghế dài thấp chân. Trong khuôn viên thường có một miếu thổ thần, quy mônhỏ như một cái lều. Trang phục Có đặc trưng riêng về tạo hình và phong cách thẩm mỹ trên trang phục. + Trang phục nam Nam mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, cúc sừng vai, hai túi dưới hoặc thêm túi trênngực trái. Đây là loại áo cánh ngắn phủ kín mông. Đầu cắt tóc ngắn hoặc quấn khăntrắng. Quần lá tọa ống rộng dùng khăn thắt giữa bụng còn gọi là khăn quần. Xưa cótục để tóc dài búi tóc. Trong lễ hội dùng áo lụa tím hoặc tơ vàng, khăn màu tím than,ngoài khoác đôi áo chúng đen dài tới gối, cái cúc nách và sườn phải. + Trang phục nữ Áo mặc thường ngày có tên là áo pắn (áo ngắn). Đây là loại áo cánh ngắn, xẻ ngực,thân ngắn hơn so với áo cánh người Kinh, ống tay dài, áo màu nâu hoặc trắng (về saucó thêm các màu khác không phải loại vải cổ truyền). Bên trong là loại áo báng, cùngvới đầu váy nổi lên giữa hai vạt áo ngắn. Đầu thường đội khăn trắng, xanh với phongcách không cầu kỳ như một số tộc người khác. Váy là loại váy kín màu đen. Toàn bộphận được trang trí là đầu váy và cạp váy, khi mặc mảng hoa văn nổi lên giữa trungtâm cơ thể. Đây là một phong cách trang trí và thể hiện ít gặp ở các tộc khác trongnhóm ngôn ngữ và khu vực láng giềng (Trừ nhóm Thái Mai Châu, Hòa Bình do ảnhhưởng văn hóa Mường mà mặc thường ngày tương tự như họ) Nhóm Mường ThanhHóa có loại áo ngắn chui đầu, gấu lượn, khi mặc cho vào trong cạp váy và cao lên đếnngực. Phần trang trí hoa văn trên cạp váy gồm các bộ phận: rang trên, rang dưới, vàcao. Trong dịp lễ, Tết họ mang chiếc áo dài xẻ ngực thường không cài khoác ngoài bộtrang phục thường nhật vừa mang tính trang trọng vừa phô được hoa văn cạp váy kínđáo bên trong. Nhóm mặc áo cánh ngắn xẻ ngực thường mang theo chiếc yếm bêntrong. Về cơ bản giống yếm của p ...