Đánh giá chất lượng sống của 66 bệnh nhân ung thư đại - trực tràng đã có di căn xa bằng bộ câu hỏi QoL-C30
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 3.84 MB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết Đánh giá chất lượng sống của 66 bệnh nhân ung thư đại - trực tràng đã có di căn xa bằng bộ câu hỏi QoL-C30 trình bày đánh giá chất lượng sống của 66 BN ung thư ĐTT đã có di căn xa bằng bộ câu hỏi QoL-C30 nhằm mô tả thực trạng và tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sống của các BN ung thư ĐTT giai đoạn di căn.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá chất lượng sống của 66 bệnh nhân ung thư đại - trực tràng đã có di căn xa bằng bộ câu hỏi QoL-C30 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG SỐNG CỦA 66 BỆNH NHÂN UNG THƯ ĐẠI - TRỰC TRÀNG ĐÃ CÓ DI CĂN XA BẰNG BỘ CÂU HỎI QoL-C30 Bùi Việt Hùng1, Nguyễn Mạnh Hưng1 Trần Ánh Vân1, La Vân Trường1 TÓM TẮT: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang chất lượng sống và một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sống (qua bảng câu hỏi QoL-C30) ở 66 bệnh nhân ung thư đại - trực tràng đã có di căn xa. Kết quả: Điểm chất lượng sống chung trung bình là 61,36 (± 21,9) điểm; 4,5% bệnh nhân có chất lượng sống chung kém (< 33,3 điểm). Các khía cạnh chức năng có chất lượng xấu (< 33,3 điểm) cao là: chức năng xã hội (13,6%); chức năng thể chất (7,6%); chức năng hoạt động (6,1%). Các khía cạnh triệu chứng có tỉ lệ chất lượng xấu cao lần lượt là: khó khăn tài chính (37,9%), mất ngủ (12,1%), đau đớn (7,6%), mệt mỏi (7,6%). Bệnh nhân trên 60 tuổi chất lượng sống chung và chất lượng giấc ngủ xấu hơn bệnh nhân ≤ 60 tuổi. Nữ giới chất lượng cảm xúc xấu hơn, lo lắng về cân nặng nhiều hơn nam giới. Bệnh nhân nhóm có ECOG từ 1-2 điểm đau nhiều hơn, ăn kém ngon, tiêu chảy nhiều hơn nhóm 0 điểm ECOG. Chất lượng sống khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm chưa điều trị hóa chất, điều trị từ 1-4 đợt, từ 5-8 đợt, từ 8-12 và trên 12 đợt. Từ khóa: Chất lượng sống, ung thư đại trực tràng, QoL-C30. ABSTRACT: Prospective, cross-sectional study of quality of life and some factors affecting quality of life (through the QoL-C30 questionnaire) in 66 colorectal cancer patients with distant metastases. Results: The mean quality of life score was 61.36 (± 21.9) points; 4.5% of patients had poor overall quality of life (< 33.3 points). Most common functional aspects with bad quality (< 33.3 points) are: social function (13.6%); physical function (7.6%); operational function (6.1%). The symptom aspects with a high rate of bad quality were: financial hardship (37.9%), insomnia (12.1%), pain (7.6%), and fatigue (7, 6%). Patients over 60 years of age had worse overall quality of life and sleep quality than patients ≤ 60 years of age. Women had poorer emotional health and are more worried about weight than men. Patients in the ECOG group with 1-2 points had more pain, poorer appetite, and more diarrhea than the group of 0 points. The difference in quality of life between the groups that did not receive chemotherapy, those that received 1- 4 times, 5-8 times, 8-12 and more than 12 times was not statistically significant. Keywords: Quality of life, colorectal cancer, QoL-C30. Chịu trách nhiệm nội dung: La Vân Trường, Email: lvtruonga6108@gmail.com Ngày nhận bài: 12/10/2022; mời phản biện khoa học: 11/2022; chấp nhận đăng: 15/12/2022. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ. miễn dịch, các biện pháp điều trị tại chỗ - tại vùng Ung thư đại - trực tràng (ĐTT) là một trong như phẫu thuật, tia xạ, RFA, TACE…) đã góp phần những loại ung thư hay gặp nhất. Theo Globocan, cải thiện thời gian sống thêm của BN ung thư ĐTT ước tính năm 2020, toàn thế giới có khoảng di căn. Một nghiên cứu hồi cứu thực hiện ở nhóm 1.880.725 ca ung thư ĐTT mắc mới (đứng thứ 3 BN ung thư ĐTT đã có di căn tại Candiolo Cancer trong các bệnh ung thư) và khoảng 915.880 ca ung Institute cho thấy: thời gian sống thêm toàn bộ của thư ĐTT tử vong (đứng thứ 2 trong các bệnh ung BN giai đoạn 2001-2006 là 29,2 tháng, ngắn hơn thư) [1]. Cũng theo Globocan, ước tính năm 2020, so với giai đoạn 2007-2014 (33,5 tháng), khác biệt Việt Nam có khoảng 8.887 ca mắc mới (đứng thứ với p = 0,041 [4]. Tuy nhiên, tình trạng bệnh và các biện pháp điều trị cũng ảnh hưởng tới chất lượng 6 trong các bệnh ung thư) và 7.539 ca tử vong do sống của người bệnh. ung thư ĐTT (đứng thứ 3 trong các bệnh ung thư).1 Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), “chất Tại thời điểm chẩn đoán, khoảng 36,6% bệnh lượng sống liên quan đến sức khỏe” là những nhân (BN) ung thư ĐTT đã có di căn xa [3]. Điều trị ảnh hưởng do một bệnh, tật hoặc một rối loạn đa mô thức (điều trị hóa chất, điều trị đích, điều trị sức khỏe của một cá nhân đến sự thoải mái và 1 Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 khả năng hưởng thụ cuộc sống của cá nhân đó 30 Tạp chí Y HỌC QUÂN SỰ, ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá chất lượng sống của 66 bệnh nhân ung thư đại - trực tràng đã có di căn xa bằng bộ câu hỏi QoL-C30 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG SỐNG CỦA 66 BỆNH NHÂN UNG THƯ ĐẠI - TRỰC TRÀNG ĐÃ CÓ DI CĂN XA BẰNG BỘ CÂU HỎI QoL-C30 Bùi Việt Hùng1, Nguyễn Mạnh Hưng1 Trần Ánh Vân1, La Vân Trường1 TÓM TẮT: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang chất lượng sống và một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sống (qua bảng câu hỏi QoL-C30) ở 66 bệnh nhân ung thư đại - trực tràng đã có di căn xa. Kết quả: Điểm chất lượng sống chung trung bình là 61,36 (± 21,9) điểm; 4,5% bệnh nhân có chất lượng sống chung kém (< 33,3 điểm). Các khía cạnh chức năng có chất lượng xấu (< 33,3 điểm) cao là: chức năng xã hội (13,6%); chức năng thể chất (7,6%); chức năng hoạt động (6,1%). Các khía cạnh triệu chứng có tỉ lệ chất lượng xấu cao lần lượt là: khó khăn tài chính (37,9%), mất ngủ (12,1%), đau đớn (7,6%), mệt mỏi (7,6%). Bệnh nhân trên 60 tuổi chất lượng sống chung và chất lượng giấc ngủ xấu hơn bệnh nhân ≤ 60 tuổi. Nữ giới chất lượng cảm xúc xấu hơn, lo lắng về cân nặng nhiều hơn nam giới. Bệnh nhân nhóm có ECOG từ 1-2 điểm đau nhiều hơn, ăn kém ngon, tiêu chảy nhiều hơn nhóm 0 điểm ECOG. Chất lượng sống khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm chưa điều trị hóa chất, điều trị từ 1-4 đợt, từ 5-8 đợt, từ 8-12 và trên 12 đợt. Từ khóa: Chất lượng sống, ung thư đại trực tràng, QoL-C30. ABSTRACT: Prospective, cross-sectional study of quality of life and some factors affecting quality of life (through the QoL-C30 questionnaire) in 66 colorectal cancer patients with distant metastases. Results: The mean quality of life score was 61.36 (± 21.9) points; 4.5% of patients had poor overall quality of life (< 33.3 points). Most common functional aspects with bad quality (< 33.3 points) are: social function (13.6%); physical function (7.6%); operational function (6.1%). The symptom aspects with a high rate of bad quality were: financial hardship (37.9%), insomnia (12.1%), pain (7.6%), and fatigue (7, 6%). Patients over 60 years of age had worse overall quality of life and sleep quality than patients ≤ 60 years of age. Women had poorer emotional health and are more worried about weight than men. Patients in the ECOG group with 1-2 points had more pain, poorer appetite, and more diarrhea than the group of 0 points. The difference in quality of life between the groups that did not receive chemotherapy, those that received 1- 4 times, 5-8 times, 8-12 and more than 12 times was not statistically significant. Keywords: Quality of life, colorectal cancer, QoL-C30. Chịu trách nhiệm nội dung: La Vân Trường, Email: lvtruonga6108@gmail.com Ngày nhận bài: 12/10/2022; mời phản biện khoa học: 11/2022; chấp nhận đăng: 15/12/2022. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ. miễn dịch, các biện pháp điều trị tại chỗ - tại vùng Ung thư đại - trực tràng (ĐTT) là một trong như phẫu thuật, tia xạ, RFA, TACE…) đã góp phần những loại ung thư hay gặp nhất. Theo Globocan, cải thiện thời gian sống thêm của BN ung thư ĐTT ước tính năm 2020, toàn thế giới có khoảng di căn. Một nghiên cứu hồi cứu thực hiện ở nhóm 1.880.725 ca ung thư ĐTT mắc mới (đứng thứ 3 BN ung thư ĐTT đã có di căn tại Candiolo Cancer trong các bệnh ung thư) và khoảng 915.880 ca ung Institute cho thấy: thời gian sống thêm toàn bộ của thư ĐTT tử vong (đứng thứ 2 trong các bệnh ung BN giai đoạn 2001-2006 là 29,2 tháng, ngắn hơn thư) [1]. Cũng theo Globocan, ước tính năm 2020, so với giai đoạn 2007-2014 (33,5 tháng), khác biệt Việt Nam có khoảng 8.887 ca mắc mới (đứng thứ với p = 0,041 [4]. Tuy nhiên, tình trạng bệnh và các biện pháp điều trị cũng ảnh hưởng tới chất lượng 6 trong các bệnh ung thư) và 7.539 ca tử vong do sống của người bệnh. ung thư ĐTT (đứng thứ 3 trong các bệnh ung thư).1 Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), “chất Tại thời điểm chẩn đoán, khoảng 36,6% bệnh lượng sống liên quan đến sức khỏe” là những nhân (BN) ung thư ĐTT đã có di căn xa [3]. Điều trị ảnh hưởng do một bệnh, tật hoặc một rối loạn đa mô thức (điều trị hóa chất, điều trị đích, điều trị sức khỏe của một cá nhân đến sự thoải mái và 1 Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 khả năng hưởng thụ cuộc sống của cá nhân đó 30 Tạp chí Y HỌC QUÂN SỰ, ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Nghiên cứu y học Ung thư đại trực tràng Bộ câu hỏi QoL-C30 Điều trị hóa chất Ung thư giai đoạn di cănTài liệu có liên quan:
-
5 trang 335 0 0
-
Tổng quan hệ thống về lao thanh quản
6 trang 324 0 0 -
8 trang 291 1 0
-
Vai trò tiên lượng của C-reactive protein trong nhồi máu não
7 trang 288 0 0 -
Tổng quan hệ thống hiệu quả kiểm soát sâu răng của Silver Diamine Fluoride
6 trang 285 0 0 -
Khảo sát hài lòng người bệnh nội trú tại Bệnh viện Nhi Đồng 1
9 trang 257 0 0 -
13 trang 229 0 0
-
5 trang 225 0 0
-
Tình trạng viêm lợi ở trẻ em học đường Việt Nam sau hai thập niên có chương trình nha học đường
4 trang 224 0 0 -
8 trang 222 0 0