Danh mục tài liệu

Hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính cho huy động vốn của doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 198.47 KB      Lượt xem: 17      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết trình bày thực trạng các cơ chế chính sách tài chính của nhà nước nhằm hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp huy động vốn giai đoạn 2011-2018; những hạn chế trong hệ thống chính sách, cơ chế hiện nay; một số giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp huy động vốn.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính cho huy động vốn của doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam Taäp 03/2019 TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄP Hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính cho huy động vốn của doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam Phạm Thị Thảo Huyền - CQ54/11.11 N hững năm gần đây, việc hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp là một trong những nhiệm vụ quan trọng được ưu tiên thực hiện ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Cơ chế, chính sách tài chính của nhà nước đề ra nhằm khuyến khích và giúp đỡ các doanh nghiệp (DN) giải quyết các khó khăn lúc ban đầu, trong đó bao gồm cả việc huy động vốn. Tại Việt Nam, giai đoạn 2011-2018 là mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của khu vực DN so với 20 năm trước đó. Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập có xu hướng tăng cả về số lượng lẫn vốn đăng ký. Số liệu từ Cục quản lý Đăng ký kinh doanh của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2018, tổng số doanh nghiệp thành lập mới là 131.275 DN, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm 2017. Thực trạng các cơ chế chính sách tài chính của nhà nước nhằm hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp huy động vốn giai đoạn 2011-2018 Nhằm thúc đẩy và hỗ trợ các DN khởi nghiệp, Chính phủ Việt Nam đã ban hành các cơ chế, chính sách để đa dạng hóa hình thức huy động vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khởi nghiệp tiếp cận nhiều hơn với hình thức huy động vốn hiện nay. Cụ thể: Thứ nhất, chính sách huy động vốn qua thị trường chứng khoán Chính sách huy động vốn qua thị trường chứng khoán được xây dựng với nhiều nội dung đổi mới, phù hợp với thực tiễn phát triển. Hiện tại, khung pháp lý cho hoạt động của thị trường chứng khoán đã dần được hoàn thiện, góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển lành mạnh, ổn định, vững chắc, trở thành kênh huy động vốn trung, dài hạn cho doanh nghiệp. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cũng công bố dự thảo Luật chứng khoán (sửa đổi) dự kiến trình Chính phủ và Quốc hội vào năm 2019. Dự thảo bao gồm 10 chương và 137 điều. Trong đó, một số nội dung sửa đổi mang tính chất ảnh hưởng sâu rộng đến thị trường như nâng tiêu chuẩn công ty đại chúng, nới room nhà đầu tư nước ngoài nghiªn cøu khoa häc Sinh viªn 10 TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄP Taäp 03/2019 lên 100% và điều chỉnh một số quy định về huy động vốn của các doanh nghiệp... Dự thảo Luật cũng quy định về việc giảm vốn điều lệ khi mua cổ phiếu quỹ, nới quy định trong hoạt động của công ty chứng khoán hay trao quyền nhiều hơn cho UBCK. Thứ hai, chính sách huy động vốn qua phát hành trái phiếu Chính sách huy động vốn qua phát hành trái phiếu DN theo hướng nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của DN khi huy động vốn trên thị trường trái phiếu. Việc hoàn thiện chính sách này đã tác động tích cực đến vấn đề huy động vốn của DN thuộc mọi thành phần kinh tế; Thị trường trái phiếu DN đã có sự tham gia tích cực của các DN và cho thấy sự tăng trưởng rõ rệt cả về quy mô thị trường và số lượng. Thứ ba, đối với chính sách tín dụng Đối với chính sách hỗ trợ tín dụng ưu đãi, DN khởi nghiệp phải có dự án, phương án sản xuất kinh doanh khả thi thuộc lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích của Nhà nước thông qua Quỹ Phát triển DNNVV. Hướng dẫn cơ chế tài chính cho Quỹ phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp hoạt động cũng được ban hành tại Thông tư số 19/2015/TT-BTC. Như vậy, các doanh nghiệp khởi nghiệp thuộc lĩnh vực ưu tiên nếu đáp ứng đủ điều kiện thì được vay vốn tại Quỹ với mức vay tối đa là 30 tỷ đồng, lãi suất vay 7%/năm, thời hạn vay tối đa 7 năm. Chính sách tín dụng của Nhà nước cũng đã có nhiều thay đổi quan trọng, được điều chỉnh, sửa đổi cho phù hợp với biến động của nền kinh tế vĩ mô như tín dụng đầu tư của Nhà nước, thay thế các văn bản trước đây về chính sách tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu. Theo đó, khách hàng có dự án đầu tư nhóm thuộc ngành nghề, lĩnh vực kết cấu hạ tầng; nông nghiệp, nông thôn, công nghiệp được vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước không phân biệt theo địa bàn đầu tư. Mức vốn cho vay tín dụng đầu tư của Nhà nước tối đa đối với mỗi dự án bằng 70% tổng mức vốn đầu tư của dự án (không bao gồm vốn lưu động). Thời hạn cho vay được xác định theo khả năng thu hồi vốn của dự án và khả năng trả nợ của khách hàng, phù hợp với đặc điểm sản xuất, kinh doanh của dự án (tuy nhiên, không quá 12 năm). Những hạn chế trong hệ thống chính sách, cơ chế hiện nay Thứ nhất, cơ chế chính sách và hệ thống pháp luật còn nhiều điểm chưa phù hợp Do tốc độ phát triển nhanh của hệ sinh thái khởi nghiệp với nhiều cấu phần mới, nên cơ chế chính sách và hệ thống pháp luật chưa theo kịp để điều chỉnh cho phù hợp với tình hình huy động vốn của DN khởi nghiệp theo phương thức mới (như quỹ đầu tư mạo hiểm Việt Nam, sự công nhận giá trị bằng tiền của tài sản vô hình trong góp vốn thành lập công ty hay bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với DN khởi nghiệp...). nghiªn cøu khoa häc Sinh viªn 11 Taäp 03/2019 TAØI CHÍNH DOANH NGHIEÄP Thứ hai, hiệu quả trong kênh huy động bằng thị trường chứng khoán chưa cao Kênh huy động vốn qua phát hành trái phiếu DN hiện nay cũng chưa thực sự đạt hiệu quả như mong đợi. Nguyên nhân là do còn thiếu hệ thống các nhà đầu tư, sức cầu thấp, chưa hình thành được thị trường định mức tín nhiệm DN cũng như trái phiếu DN. Quan điểm coi trái phiếu DN như một công cụ tín dụng đã dẫn đến những quy định mang tính hạn chế hoạt động đầu tư vào trái phiếu DN đối với các tổ chức tín dụng. Đồng thời, hệ thống pháp lý chưa đủ rộng và sâu đã phần nào hạn chế thị trường trái phiếu DN phát triể ...