Danh mục tài liệu

Khủng hoảng nợ công trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Số trang: 15      Loại file: pdf      Dung lượng: 452.50 KB      Lượt xem: 63      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mục đích của bài viết là tóm tắt và tổng hợp những trường hợp điển hình nhất của khủng hoảng nợ ở châu Á và châu Âu, bao gồm cả những vấn đề chung và tại một số quốc gia/khu vực cụ thể, từ đó rút ra bài học và một số khuyến nghị cho kinh tế Việt Nam trong bối cảnh phức tạp và nhiều rủi ro trên thế giới hiện nay.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khủng hoảng nợ công trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 23. KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM ThS. Phạm Thanh Dung* Tóm tắt Bắt đầu từ cuộc khủng hoảng thanh khoản, cuộc khủng hoảng nợ ở châu Á (năm 1997) và châu Âu (năm 2009) phát triển ở mức độ lớn hơn tạo ra suy thoái toàn cầu, không chỉ ở các quốc gia và khu vực có khủng hoảng mà ở các khu vực khác. Tác động của nó ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế mà không chỉ là đối với hệ thống ngân hàng. Mục đích của bài viết là tóm tắt và tổng hợp những trường hợp điển hình nhất của khủng hoảng nợ ở châu Á và châu Âu, bao gồm cả những vấn đề chung và tại một số quốc gia/khu vực cụ thể, từ đó rút ra bài học và một số khuyến nghị cho kinh tế Việt Nam trong bối cảnh phức tạp và nhiều rủi ro trên thế giới hiện nay, trong đó phải kể đến sự bùng phát nghiêm trọng của đại dịch COVID-19 và các mâu thuẫn chính trị khu vực trên thế giới. Đó cũng là những tác nhân gây ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế vĩ mô và hoạt động của các doanh nghiệp và cá nhân trong nền kinh tế quốc gia. Từ khóa: Khủng hoảng nợ, đại dịch COVID-19, ổn định kinh tế 1. GIỚI THIỆU Các cuộc khủng hoảng nợ/khủng hoảng tài chính luôn gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế toàn cầu một khi chúng xảy ra, bất kể cuộc khủng hoảng bắt đầu và lan rộng từ đâu. Từ cuộc khủng hoảng nợ châu Á trong quá khứ làm thay đổi thị trường vốn khu vực và các chính sách/quy định kinh tế đến cuộc khủng hoảng lớn nhất ở châu Âu, bắt đầu từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007, khủng hoảng nợ có thể được coi là một trong những chủ đề kinh tế - chính trị nóng nhất. Nó thậm chí còn được chú ý nhiều hơn sau vụ bê bối tài chính của Hy Lạp mùa hè 2015, theo đó cuộc khủng hoảng nợ bùng phát kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống tài chính của các ngân hàng trong nước và ảnh hưởng đến các nước châu Âu khác sử dụng cùng loại tiền tệ – Euro. * Bộ môn Quản trị kinh doanh và Tài chính - Kế toán, Trường Đại học Ngoại thương cơ sở II - Thành phố Hồ Chí Minh 285 KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA Nhiều giải pháp và chính sách liên quan đã được đề xuất áp dụng nhưng không phải tất cả đều được thực hiện thành công. Cả các chính trị gia và các nhà kinh tế đã cùng nhau cố gắng đối phó với rủi ro khủng hoảng nợ có thể xảy ra lần nữa, ít nhất một khi nó xảy ra, cần có một số cách hiệu quả để kiểm soát/giảm thiểu các tác động kinh tế - xã hội bất lợi của nó càng nhiều càng tốt. Vì lý do đó, nguyên nhân của các cuộc khủng hoảng nợ đã được trình bày và phân tích bởi cả các nhà phân tích kinh tế và hoạch định chính sách với cuộc tranh cãi sau này về các khoản nợ. Các nhà kinh tế ủng hộ sự chặt chẽ, trong khi các nhà hoạch định chính sách thích các giải pháp ít thắt chặt hơn của Keynes, khiến cuộc khủng hoảng nợ thậm chí còn tồi tệ hơn (Iqbal, 2013). Kindleberger và Aliber (2005) cho biết, các cuộc khủng hoảng kinh tế/tài chính có lịch sử lâu dài hàng thế kỷ. Mối quan hệ của các cuộc khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ thường liên quan đến việc dư nợ mà thường được coi là nguyên nhân gốc rễ của các cuộc khủng hoảng. Người ta tin rằng “đi vay dựa trên lãi suất, đặc biệt là vay đầu cơ (có vẻ như sẽ được bảo vệ bởi các công cụ phái sinh)” và thâm hụt ngân sách là nguồn gốc của các cuộc khủng hoảng, vốn đã xảy ra với cuộc khủng hoảng nợ năm 2009 ở châu Âu. Theo thời gian, cường độ của các cuộc khủng hoảng nợ ngày càng phức tạp do sự liên kết của các công cụ phái sinh sử dụng, nợ chồng chất và sự phá vỡ các quy tắc của Bretton Woods (Iqbal, 2013). Xác nhận tác động của việc tạo ra các vấn đề phức hợp của các dẫn xuất, Reinhart và Rogoff (2009) đã cung cấp một cuộc khảo sát dài 8 thế kỷ để có một đánh giá toàn diện và tìm ra những đặc điểm chung nhất của tất cả các cuộc khủng hoảng. Chúng bao gồm sự phụ thuộc vào việc đi vay, sự tham gia quá mức vào nền kinh tế của khu vực công, và cuối cùng là đầu cơ chứng khoán cộng với ảnh hưởng của các sàn giao dịch nước ngoài và thị trường hàng hóa. Nhìn lại năm 2007, lãi suất trước khủng hoảng là tương đối thấp. Ngay trước khi xảy ra khủng hoảng, lãi suất đã ở mức thấp. Hình thức cho vay thế chấp đã làm tăng việc vay mượn của các cá nhân, trong đó, nhiều khoản vay trong số này là các khoản thế chấp dưới mức chính. Sau giai đoạn 2007 - 2009, giá bất động sản giảm 48% bắt đầu tăng mạnh. Do đó, các chủ sở hữu bất động sản có giá trị ròng cao hơn và cũng được cung cấp các khoản vay ngân hàng lớn hơn, khuyến khích họ vay tín dụng nhiều hơn. Tỷ lệ đòn bẩy tiêu dùng ở tất cả các nước tiên tiến đều tăng. Tỷ lệ đòn bẩy đối với người tiêu dùng thuộc khối Liên minh châu Âu (EU), theo báo cáo của Iqbal (2013), đã tăng từ dưới 75% (năm 2001) lên 95% (năm 2007). Lãi suất thấp tại thời điểm đó cũng tác động đến khu vực doanh nghiệp thông qua mức vay cao hơn, giảm chi phí đi vay, khuyến khích đầu cơ vào thị trường phái sinh khiến lợi nhuận thu được chủ yếu là bán khống. Như đã cảnh báo trước đó của các nhà kinh tế, nền kinh tế toàn cầu sau đó đã trải qua cuộc suy thoái dưới hình thức khủng hoảng nợ châu Âu năm 2009 do giá trị bất động sản giảm nhưng mức nợ vẫn ở mức cao. Gánh nặng cho vay gây áp lực lên nhu cầu, sau đó làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP của thế giới, trở thành vấn đề nghiêm trọng đối với tất cả các Chính phủ. Lịch sử cho thấy những bài học về sự nguy hiểm của các khoản nợ, tuy nhiên, sự tồn tại của các khoản nợ vẫn là một ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu có liên quan: