Max Born
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 111.03 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Max Born (11 tháng 12 năm 1882 – 5 tháng 1 năm 1970) là một nhà vật lý và một nhà toán học người Đức. Ông được trao thẳng giải Nobel Vật lý vào năm 1954.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Max Born Max Born Max Born (11 tháng 12 năm 1882 – 5 tháng 1 năm 1970) là một nhà vậtlý và một nhà toán học người Đức. Ông được trao thẳng giải Nobel Vật lý vàonăm 1954. Born được sinh ra ở Breslau (bây giờ là Wrocław), vào lúc Born sinh ralà tỉnh Silesia của Vương quốc Phổ. Ông là một trong hai người con của GustavBorn, (22 tháng 4 năm 1850, Kempen - 6 tháng 7 năm 1900, Breslau), một nhà giảiphẫu, và Gretchen Kauffmann (22 tháng 1 năm 1856, Tannhausen - 29 tháng 8năm 1886, Breslau), từ một gia đình của các nhà công nghiệp của tỉnh Silesia.Gustav và Gretchen thành hôn vào 7 tháng 5 năm 1881. Max Born có một ngườiem gái tên là Käthe (sinh 5 tháng 3 năm 1884), và một người em kế tên làWolfgang (sinh 21 tháng 10 năm 1892), sau khi cha ông lập gia đình lần thứ hai(13 tháng 9 năm 1891) với Bertha Lipstein. Mẹ của Max Born qua đời khi ông vừađược bốn tuổi. Sau khi học xong trung học tại Gymnasium König-Wilhelm, Born tiếp tục họctại Đại học Breslau sau đó là Đại học Heidelberg và Đại học Zurich. Trong thời gianhọc Ph.D.[1] và Habilitation [2] tại Đại học Göttingen, ông bắt đầu biết đến nhiều nhàtoán học và khoa học lỗi lạc bao gồm Felix Klein, David Hilbert, HermannMinkowski, Carle David Tolme Runge, Karl Schwarzschild và Woldemar Voigt. Vàonăm 1908-1909 ông học tại Gonville và Caius College, Cambridge. Sau khi Born làm xong Habilitation vào năm 1909, ông trở thành một học giảtrẻ tại Göttingen như là một Privatdozent[3]. Từ năm 1915 đến 1919, ngoại trừ một thời gian ngắn trong quân đội Đức,Born là giáo sư (extraordinarius professor) về vật lý lý thuyết tại Đại học Berlin, nơiông trở thành bạn với Albert Einstein. Vào năm 1919, ông trở thành giáo sư(ordinarius professor) trong phân khoa Khoa học tạiĐại học Frankfurt am Main.Trong khi ở đó, Đại học Göttingen đang tìm người thay thế cho Peter Debye, và bộmôn Triết học đã đặt Born ở đầu danh sách. Trong khi thương lượng về vị trí đóvới bộ giáo dục, Born đã bố trí một vị trí khác tại Göttingen cho đồng nghiệp và làbạn lâu năm làJames Franck vào chỗ đó[4]. Vào năm 1921, Born trở thành giáo sư(ordinarius professor) về vật lý lý thuyết và Giám đốc của Viện Vật lý lý thuyết tạiGöttingen[5]. Trong khi ở đó, ông đã công thức hóa[6], diễn đạt mà bây giờ đã trởthành tiêu chuẩn của hàm mật độ xác suất(probability density function), cho ψ*ψtrong phương trình Schrödinger của cơ học lượng tử, xuất bản tháng 7 năm1926[7] và vì công trình đó ông đã được giải Nobel Vật lý năm 1954, khoảng bathập kỉ sau đó. Trong suốt 12 năm Born và Franck tại Đại học Göttingen], 1921-1933, Bornđã có một cộng sự cùng quan điểm trên những khái niệm khoa học cơ bản - mộtthuận lợi đáng kể trong việc giảng dạy và nghiên cứu về cơ học lượng tử. Quanđiểm về sự hợp tác chặt chẽ giữa vật lý lý thuyết và vật lý thực nghiệm cũng đượcđồng ý bởi Arnold Sommerfeld tại Đại học München, người cũng là một giáo sư vậtlý lý thuyết và Giám đốc Viện Vật lý lý thuyết - cũng là một trong những người điđầu trong sự phát triển của lý thuyết lượng tử. Born và Sommerfeld không chỉcùng quan điểm về cách sử dụng vật lý thực nghiệm để thử và phát triển những lýthuyết của họ, Sommerfeld, năm 1922 khi ông ở Hoa Kỳ giảng dạy tại Đại họcWisconsin-Madison, đã gửi học sinh của ông là Werner Heisenberg để làm trợ lýcho Born. Heisenberg lại quay về Göttingen vào năm 1923 và hoànthành Habilitation dưới sự hướng dẫn của Born vào năm 1924 và trởthành Privatdozent tại Göttingen - một năm trước khi Heisenberg và Born xuấtbản những bài báo đầu tiên của họ về cơ học ma trận[8][9]. Vào năm 1925, Born và Heisenberg đã công thức hóa việc biểu diễn cơ họcma trận cho cơ học lượng tử. Vào 9 tháng 7, Heisenberg đưa cho Born một bài báođể đánh giá và đưa đi xuất bản[10]. Trong bài báo đó, Heisenberg đã công thức hóacơ học lượng tử tránh những biểu diễn cụ thể nhưng không quan sát được về quỹđạo của electron bằng cách sử dụng các tham số như là xác suất chuyển đổi cho cácbước nhảy lượng tử[11]. Khi Born đọc bài báo đó, ông nhận ra rằng cách hình thứchóa đó có thể mở rộng ra ngôn ngữ của ma trận một cách hệ thống hơn[12], mà ôngđã từng biết đến khi học cùng với Jakob Rosanes[13] tại Đại học Breslau. Born, cùngvới sự giúp đỡ của trợ lý và cũng là học trò cũ của mình là Pascual Jordan, ngay lậptức bắt đầu công việc mở rộng đó, và nộp kết quả của họ để xuất bản; bài báo đượcnhận đăng chỉ 60 ngày sau bài báo của Heisenberg[14][15]. (Một bản tóm tắt ngắn vềvai trò của Born trong sự phát triển của việc công thức hóa cơ học lượng tử sửdụng cơ học ma trận cùng với lời bàn về một công thức quan trọng liên quan tínhkhông giao hoán được của xác suất biên độ có thể tìm đọc bài viết bởi JeremyBernstein[16][17][18].) Cho đến thời điểm đó, ma trận ít được sử dụng bởi các nhà vật lý; chúngđược xem là thuộc về lãnh vực toán học thuần túy. Gustav Mie đã sử dụng chúngtrong một bài báo về ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Max Born Max Born Max Born (11 tháng 12 năm 1882 – 5 tháng 1 năm 1970) là một nhà vậtlý và một nhà toán học người Đức. Ông được trao thẳng giải Nobel Vật lý vàonăm 1954. Born được sinh ra ở Breslau (bây giờ là Wrocław), vào lúc Born sinh ralà tỉnh Silesia của Vương quốc Phổ. Ông là một trong hai người con của GustavBorn, (22 tháng 4 năm 1850, Kempen - 6 tháng 7 năm 1900, Breslau), một nhà giảiphẫu, và Gretchen Kauffmann (22 tháng 1 năm 1856, Tannhausen - 29 tháng 8năm 1886, Breslau), từ một gia đình của các nhà công nghiệp của tỉnh Silesia.Gustav và Gretchen thành hôn vào 7 tháng 5 năm 1881. Max Born có một ngườiem gái tên là Käthe (sinh 5 tháng 3 năm 1884), và một người em kế tên làWolfgang (sinh 21 tháng 10 năm 1892), sau khi cha ông lập gia đình lần thứ hai(13 tháng 9 năm 1891) với Bertha Lipstein. Mẹ của Max Born qua đời khi ông vừađược bốn tuổi. Sau khi học xong trung học tại Gymnasium König-Wilhelm, Born tiếp tục họctại Đại học Breslau sau đó là Đại học Heidelberg và Đại học Zurich. Trong thời gianhọc Ph.D.[1] và Habilitation [2] tại Đại học Göttingen, ông bắt đầu biết đến nhiều nhàtoán học và khoa học lỗi lạc bao gồm Felix Klein, David Hilbert, HermannMinkowski, Carle David Tolme Runge, Karl Schwarzschild và Woldemar Voigt. Vàonăm 1908-1909 ông học tại Gonville và Caius College, Cambridge. Sau khi Born làm xong Habilitation vào năm 1909, ông trở thành một học giảtrẻ tại Göttingen như là một Privatdozent[3]. Từ năm 1915 đến 1919, ngoại trừ một thời gian ngắn trong quân đội Đức,Born là giáo sư (extraordinarius professor) về vật lý lý thuyết tại Đại học Berlin, nơiông trở thành bạn với Albert Einstein. Vào năm 1919, ông trở thành giáo sư(ordinarius professor) trong phân khoa Khoa học tạiĐại học Frankfurt am Main.Trong khi ở đó, Đại học Göttingen đang tìm người thay thế cho Peter Debye, và bộmôn Triết học đã đặt Born ở đầu danh sách. Trong khi thương lượng về vị trí đóvới bộ giáo dục, Born đã bố trí một vị trí khác tại Göttingen cho đồng nghiệp và làbạn lâu năm làJames Franck vào chỗ đó[4]. Vào năm 1921, Born trở thành giáo sư(ordinarius professor) về vật lý lý thuyết và Giám đốc của Viện Vật lý lý thuyết tạiGöttingen[5]. Trong khi ở đó, ông đã công thức hóa[6], diễn đạt mà bây giờ đã trởthành tiêu chuẩn của hàm mật độ xác suất(probability density function), cho ψ*ψtrong phương trình Schrödinger của cơ học lượng tử, xuất bản tháng 7 năm1926[7] và vì công trình đó ông đã được giải Nobel Vật lý năm 1954, khoảng bathập kỉ sau đó. Trong suốt 12 năm Born và Franck tại Đại học Göttingen], 1921-1933, Bornđã có một cộng sự cùng quan điểm trên những khái niệm khoa học cơ bản - mộtthuận lợi đáng kể trong việc giảng dạy và nghiên cứu về cơ học lượng tử. Quanđiểm về sự hợp tác chặt chẽ giữa vật lý lý thuyết và vật lý thực nghiệm cũng đượcđồng ý bởi Arnold Sommerfeld tại Đại học München, người cũng là một giáo sư vậtlý lý thuyết và Giám đốc Viện Vật lý lý thuyết - cũng là một trong những người điđầu trong sự phát triển của lý thuyết lượng tử. Born và Sommerfeld không chỉcùng quan điểm về cách sử dụng vật lý thực nghiệm để thử và phát triển những lýthuyết của họ, Sommerfeld, năm 1922 khi ông ở Hoa Kỳ giảng dạy tại Đại họcWisconsin-Madison, đã gửi học sinh của ông là Werner Heisenberg để làm trợ lýcho Born. Heisenberg lại quay về Göttingen vào năm 1923 và hoànthành Habilitation dưới sự hướng dẫn của Born vào năm 1924 và trởthành Privatdozent tại Göttingen - một năm trước khi Heisenberg và Born xuấtbản những bài báo đầu tiên của họ về cơ học ma trận[8][9]. Vào năm 1925, Born và Heisenberg đã công thức hóa việc biểu diễn cơ họcma trận cho cơ học lượng tử. Vào 9 tháng 7, Heisenberg đưa cho Born một bài báođể đánh giá và đưa đi xuất bản[10]. Trong bài báo đó, Heisenberg đã công thức hóacơ học lượng tử tránh những biểu diễn cụ thể nhưng không quan sát được về quỹđạo của electron bằng cách sử dụng các tham số như là xác suất chuyển đổi cho cácbước nhảy lượng tử[11]. Khi Born đọc bài báo đó, ông nhận ra rằng cách hình thứchóa đó có thể mở rộng ra ngôn ngữ của ma trận một cách hệ thống hơn[12], mà ôngđã từng biết đến khi học cùng với Jakob Rosanes[13] tại Đại học Breslau. Born, cùngvới sự giúp đỡ của trợ lý và cũng là học trò cũ của mình là Pascual Jordan, ngay lậptức bắt đầu công việc mở rộng đó, và nộp kết quả của họ để xuất bản; bài báo đượcnhận đăng chỉ 60 ngày sau bài báo của Heisenberg[14][15]. (Một bản tóm tắt ngắn vềvai trò của Born trong sự phát triển của việc công thức hóa cơ học lượng tử sửdụng cơ học ma trận cùng với lời bàn về một công thức quan trọng liên quan tínhkhông giao hoán được của xác suất biên độ có thể tìm đọc bài viết bởi JeremyBernstein[16][17][18].) Cho đến thời điểm đó, ma trận ít được sử dụng bởi các nhà vật lý; chúngđược xem là thuộc về lãnh vực toán học thuần túy. Gustav Mie đã sử dụng chúngtrong một bài báo về ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
danh nhân thế giới tài liệu về các danh nhân tài liệu vật lí nhân vật lịch sử tiểu sử danh nhânTài liệu có liên quan:
-
Tào tháo - Câu chuyện hình tượng tiểu thuyết và con người lịch sử
6 trang 48 0 0 -
Những sứ thần nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam: Phần 1
97 trang 43 0 0 -
Biểu tượng Anh Hùng dân tộc Việt Nam quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc Tuấn
49 trang 38 0 0 -
Tài hùng biện của các nguyên thủ quốc gia: Phần 2 - Dương Minh Hào, Triệu Anh Ba
197 trang 37 0 0 -
Lịch sử Quang học - Trần Nghiêm
57 trang 37 0 0 -
Nghệ thuật Thuật xử thế của người xưa
171 trang 36 0 0 -
Danh nhân lịch sử: Nguyễn Hoàng Tôn
6 trang 34 0 0 -
6 trang 33 0 0
-
Những danh nhân Việt Nam tiêu biểu: Phần 2
99 trang 33 0 0 -
Doanh nhân lịch sử: Bảo Đại (Nguyễn Vĩnh Thụy)
6 trang 32 0 0