Danh mục tài liệu

Nghị định 13 - 11 - 1925 và hậu quả của nó đối với nông dân ở Thái Nguyên

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 227.55 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Để bình ổn những vùng ngoài vùng đồng bằng mà người Pháp không thể thường xuyên kiểm soát được; đồng thời nhằm giải toả về vấn đề dân số cho chính những vùng đồng bằng, thực dân Pháp đã ban hành chính sách “tiểu đồn điền” - nhượng đất cho người Pháp và người bản xứ. Thái Nguyên là một trong số ít tỉnh mà chính quyền thực dân thực thi thành công chính sách này. Tuy nhiên, sự thành công đó đi liền với quá trình mất đất sản xuất và quá trình bần cùng hoá của người nông dân ở Thái Nguyên.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Nghị định 13 - 11 - 1925 và hậu quả của nó đối với nông dân ở Thái Nguyên Đoàn Thị Yến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 65(03): 91 - 95 NGHỊ ĐỊNH 13 - 11 - 1925 VÀ HẬU QUẢ CỦA NÓ ĐỐI VỚI NGƯỜI NÔNG DÂN Ở THÁI NGUYÊN Đoàn Thị Yến* Trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên TÓM TẮT Để bình ổn những vùng ngoài vùng đồng bằng mà người Pháp không thể thường xuyên kiểm soát được; đồng thời nhằm giải toả về vấn đề dân số cho chính những vùng đồng bằng, thực dân Pháp đã ban hành chính sách “tiểu đồn điền” - nhượng đất cho người Pháp và người bản xứ. Thái Nguyên là một trong số ít tỉnh mà chính quyền thực dân thực thi thành công chính sách này. Tuy nhiên, sự thành công đó đi liền với quá trình mất đất sản xuất và quá trình bần cùng hoá của người nông dân ở Thái Nguyên. Để đòi lại phần đất đai bị chính quyền thực dân chiếm mất, nông dân Thái Nguyên đã tiến hành đấu tranh dưới nhiều hình thức khác nhau. Những cuộc đấu tranh đó là một trong nhiều nguyên nhân làm cho chính sách tiểu đồn điền về sau không phát huy tác dụng. Từ khoá: Đồn điền, nông dân, người bản xứ, nghị định, di dân  NGHỊ ĐỊNH 13 – 11-1925 Cuối thế kỷ XIX, sau khi chiếm được Bắc Kỳ, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách “khẩn hoang” với mục đích: đây sẽ là công cụ để giữ gìn trật tự cho các vùng ngoài đồng bằng mà người Pháp không thể thường xuyên kiểm soát được. Theo đó, thực dân Pháp đã ban hành quy chế nhượng đất cho người Pháp ở Bắc Kỳ. Thái Nguyên là một trong những tỉnh ở trung du Bắc Kỳ sớm được “đón nhận” chính sách này do chính quyền thực dân ở đây rất lưu tâm tới. Để cụ thể hoá chính sách “khẩn hoang”, thực dân Pháp đã ban hành Nghị định 5 – 9 – 1888 là nghị định đầu tiên về quy chế nhượng đất cho người Pháp ở Bắc Kỳ và đặc biệt là Nghị định 7 – 7 – 1888 về “Nhượng tiểu đồn điền cho người bản xứ”. Thế nhưng, thực tế đã cho thấy chính sách này tỏ ra kém hiệu quả vì thế những quy định của Nghị định 7 – 7 – 1888 đã sớm bị vô hiệu hoá. Nguyên nhân là ở chính bản thân quy chế nhượng đất - thụt lùi so với quy chế của các triều đại phong kiến được tiến hành trước đây; do tình hình chính trị “bất ổn”, do nạn “giặc cướp hoành hành”; do tâm lý vọng quê của những người nông dân bản xứ; quan trọng nhất là “do sự bất cập của những biện pháp về hành chính và tài chính mà chính quyền thực dân thực hiện khi tiến hành nhượng đất cho người nông dân bản xứ” [6;Tr 391].  Trước sự thất bại của chính sách tiểu đồn điền, thực dân Pháp chuyển sang thử nghiệm chính sách di dân tập thể; kết cục vẫn thất bại. Một lần nữa, chính quyền thực dân lại quay trở lại với chính sách tiểu đồn điền. Nghị định ban hành ngày 13 - 11 - 1925 ghi nhận sự trở lại đó. Ngày 13 - 11 - 1925, Thống sứ Bắc Kỳ Krauthéier ban hành nghị định về di dân tự do. Theo đó chính quyền thuộc địa “tạo điều kiện thuận lợi cho tiểu đồn điền của người bản xứ ở các vùng trung du và thượng du Bắc Kỳ và áp dụng ở các khu vực sau: Phủ Yên Thế, huyện Lục Ngạn, châu Hữu Lũng, châu Sơn Động, tỉnh Bắc Giang. Tỉnh Bắc Kạn. Tỉnh Hoà Bình Huyện Đông Triều và Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Phủ Nho Quan, huyện Gia Viễn, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình Huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Yên. Huyện Tùng Thiện và Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây. Phủ Phổ Yên, phủ Phú Bình, huyện Đồng Hỉ, huyện Đại Từ, huyện Phú Lương, châu Vũ Nhai và Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên. Tỉnh Tuyên Quang. Tỉnh Vĩnh Yên…”[6;Tr.393]. Người Pháp trở lại với chính sách này không nằm ngoài mục đích ban đầu là coi đây như là công cụ để giữ gìn trật tự cho các vùng ngoài đồng bằng chưa kiểm soát được, hơn nữa đây là một “công cuộc có ích và được Tel: 0916050720, Email: yendt@tnu.edu.com 91 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn Đoàn Thị Yến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ dân chúng ưa chuộng”, lại là cách giải toả vùng đồng bằng một cách đỡ tốn kém. Đối tượng được hưởng chế độ này là người Việt Nam và những người gốc bản xứ khác Bắc Kỳ, tuổi tối thiểu là 21 (theo cách tính của người Việt) vào lúc có đơn xin đồn điền và có quyền sở hữu tài sản riêng. Người xin chỉ được xin với tư cách cá nhân. Diện tích đồn điền được cấp nhượng là 15 mẫu. Thời hạn phải khai thác hết đồn điền là 6 năm. Trong thời gian này được gọi là đồn điền tạm thời. Chủ đồn điền không được đem cầm cố, nhượng lại hay trao cho bất kỳ ai. Từ năm thứ 4 trở đi đồn điền được cấp vĩnh viễn nếu như các điều khoản quy định được thực thi đầy đủ. Về mặt cơ bản, chính sách này được thực hiện từ khi ban hành cho đến khi thực dân Pháp kết thúc công cuộc khai thuộc địa ở Việt Nam. Ở THÁI NGUYÊN Thái Nguyên là tỉnh có phong trào di dân, khẩn hoang tự do dưới hình thức Tiểu đồn điền mạnh nhất ở Bắc Kỳ. So với các tỉnh khác ở đây phong trào này xuất hiện sớm hơn. Ngay từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất, để giải quyết vấn đề những người lính thợ được động viên sang châu Âu phục vụ chiến tranh, chính quyền thực dân đã tiến hành cấp đất ở Thái Nguyên cho họ sinh sống. “Trong các năm từ 1919 đến 1923, chỉ tính riêng 3 làng Thịnh Đức, Tân Cương, T ...

Tài liệu có liên quan: