Phân tích chiến lược của các đối thủ cạnh tranh
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 134.67 KB
Lượt xem: 21
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Phân tích chiến lược của các đối thủ cạnh tranh.Những đối thủ cạnh tranh gần nhất của công ty là những đối thủ cùng theo đuổi những thị trường mục tiêu giống nhau với chiến lược giống nhau. Nhóm chiến lược là nhóm các công ty cùng áp dụng một chiến lược giống nhau trên một thị trường mục tiêu nhất định Để minh họa, chúng ta giả sử rằng có một công ty muốn tham gia ngành thiết bị nhà bếp chủ yếu. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phân tích chiến lược của các đối thủ cạnh tranhPhân tích chiến lược của các đối thủ cạnh tranhNhững đối thủ cạnh tranh gần nhất của công ty là những đối thủ cùng theođuổi những thị trường mục tiêu giống nhau với chiến lược giống nhau. Nhómchiến lược là nhóm các công ty cùng áp dụng một chiến lược giống nhau trênmột thị trường mục tiêu nhất địnhĐể minh họa, chúng ta giả sử rằng có một công ty muốn tham gia ngành thiếtbị nhà bếp chủ yếu. Giả sử rằng hai tham biến chiến lược quan trọng củangành đó là hình ảnh chất lượng và mức độ nhất thể hóa dọc. Công ty đó pháthiện ra rằng có bốn nhóm chiến lược. Nhóm chiến lược A gồm một đối thủcạnh tranh (Maytag). Nhóm chiến lược B gồm ba đối thủ cạnh tranh chủ yếu(General Electric, Whirlpool, và Sears). Nhóm chiến lược C gồm bốn đối thủcạnh tranh và nhóm chiến lược D gồm hai đối thủ cạnh tranh.Từ việc phát hiện những nhóm chiến lược này đã nảy sinh ra những ý tưởngquan trọng. Thứ nhất, chiều cao của các rào cản nhập khác nhau đối với từngnhóm chiến lược. Một công ty mới, dễ nhập vào nhóm D hơn, bởi vì chỉ cầnvốn đầu tư tối thiểu vào việc nhất thể hóa dọc và vào các thành phần chấtlượng và danh tiếng. Ngược lại, công ty đó sẽ khó gia nhập vào nhóm A haynhóm B nhất. Thứ hai là nếu công ty nhập được vào một trong bốn nhóm đóthì các thành viên của nhóm đó sẽ trở thành những đối thủ cạnh tranh chủchốt của công ty này. Chẳng hạn như, nếu công ty nhập được vào nhóm B thìnó cần phải có đủ sức mạnh chủ yếu để chống lại General Electric,Whirlpool, và Sears. Nếu muốn thành công thì nó phải có một số ưu thế cạnhtranh nào đấy khi gia nhập nhóm đó.Mặc dù cạnh tranh diễn ra quyết liệt nhất trong nội bộ nhóm chiến lược, giữacác nhóm vẫn có sự kình địch. Thứ nhất là một số nhóm chiếm lược có thể cóý đồ lấn chiếm các nhóm khách hàng của nhà. Ví dụ, những nhà sản xuấtthiết bị nhà bếp chủ yếu có chiến lược khác nhau đều chạy theo những ngườixây dựng nhà ở kiều chung cư. Thứ hai là các khách hàng có thể không thấycó sự khác biệt gì nhiều giữa các mặt hàng chào bán. Thứ ba là mỗi nhómđều có thể muốn mở rộng phạm vi khúc thị trường của mình, nhất là nếu cáccông ty đều có quy mô và sức mạnh ngang nhau và rào cản cơ động giữa cácnhóm lại thấp.Trong thực tế, mỗi đối thủ cạnh tranh đều định hướng chuyên môn của mìnhđầy đủ hơn là chỉ theo hai tham biến. Một ví dụ về sự so sánh hai công tyđiện tử chủ yếu, Texas Instruments và Hewlett – Packard (Bảng 6-1). Rõ rànglà, mỗi công ty có một cơ cấu chiến lược khác nhau và vì thế cũng nhắm vàonhững nhóm khách hàng khác nhau. Công ty cần có những thông tin chi tiếthơn nữa về từng đối thủ cạnh tranh. Nó cần biết chất lượng sản phẩm, tínhnăng và danh mục sản phẩm, dịch vụ phục vụ khách hàng; chính sách giá cả;phạm vi phân phối, chiến lược về lực lượng bán hàng; quảng cáo và cácchương trình kích thích tiêu thụ; hoạt động nghiên cứu và phát triển, tình hìnhsản xuất, cung ứng, tài chính và các chiến lược khác của từng đối thủ cạnhtranh.Công ty phải không ngừng theo dõi chiến lược của các đối thủ cạnh tranh.Những đối thủ cạnh tranh giàu nguồn lực thường thay đổi chiến lược sau mộtthời gian. Hãy xem xét chiến lược trong ngành ôtô đã phát triển như thế nàotrong những năm qua.Ford là người chiến thắng đầu tiên, vì công ty này đã đảm bảo được chi phíthấp. Sau đó GM đã vượt lên trên Ford, bởi vì nó đã đáp ứng được mongmuốn mới của thị trường là đa dạng. Về sau các công ty Nhật đã chiếm vị trídẫn đầu, bởi vì họ cung ứng những kiểu xe tiết kiệm nhiên liệu. Tiếp đến cáccông ty Nhật lại tiến lên sản xuất những kiểu xe có độ tin cậy cao. Khi màcác nhà sản xuất ôtô Mỹ còn đang loay hoay với chất lượng thì các nhà sảnxuất ôtô Nhật đã chuyển sang chất lượng cảm giác, những điều nhìn thấy vàcảm thấy của chiếc xe và các bộ phận khác nhau của nó. Một kỹ sư trước kialàm việc cho hãng Ford đã phát biểu: Chính cần gạt tín hiệu rẽ mới không bịrụng… tốc độ nâng hạ kính xe… cảm giác về núm điều hòa nhiệt độ… đó làmột điểm để cạnh tranh giành khách hàng.Rõ ràng là các công ty phải nhạy bén với thay đổi mong muốn của kháchhàng và cách thức mà các đối thủ thay đổi chiến lược để đáp ứng nhữngmong muốn mới xuất hiện này. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phân tích chiến lược của các đối thủ cạnh tranhPhân tích chiến lược của các đối thủ cạnh tranhNhững đối thủ cạnh tranh gần nhất của công ty là những đối thủ cùng theođuổi những thị trường mục tiêu giống nhau với chiến lược giống nhau. Nhómchiến lược là nhóm các công ty cùng áp dụng một chiến lược giống nhau trênmột thị trường mục tiêu nhất địnhĐể minh họa, chúng ta giả sử rằng có một công ty muốn tham gia ngành thiếtbị nhà bếp chủ yếu. Giả sử rằng hai tham biến chiến lược quan trọng củangành đó là hình ảnh chất lượng và mức độ nhất thể hóa dọc. Công ty đó pháthiện ra rằng có bốn nhóm chiến lược. Nhóm chiến lược A gồm một đối thủcạnh tranh (Maytag). Nhóm chiến lược B gồm ba đối thủ cạnh tranh chủ yếu(General Electric, Whirlpool, và Sears). Nhóm chiến lược C gồm bốn đối thủcạnh tranh và nhóm chiến lược D gồm hai đối thủ cạnh tranh.Từ việc phát hiện những nhóm chiến lược này đã nảy sinh ra những ý tưởngquan trọng. Thứ nhất, chiều cao của các rào cản nhập khác nhau đối với từngnhóm chiến lược. Một công ty mới, dễ nhập vào nhóm D hơn, bởi vì chỉ cầnvốn đầu tư tối thiểu vào việc nhất thể hóa dọc và vào các thành phần chấtlượng và danh tiếng. Ngược lại, công ty đó sẽ khó gia nhập vào nhóm A haynhóm B nhất. Thứ hai là nếu công ty nhập được vào một trong bốn nhóm đóthì các thành viên của nhóm đó sẽ trở thành những đối thủ cạnh tranh chủchốt của công ty này. Chẳng hạn như, nếu công ty nhập được vào nhóm B thìnó cần phải có đủ sức mạnh chủ yếu để chống lại General Electric,Whirlpool, và Sears. Nếu muốn thành công thì nó phải có một số ưu thế cạnhtranh nào đấy khi gia nhập nhóm đó.Mặc dù cạnh tranh diễn ra quyết liệt nhất trong nội bộ nhóm chiến lược, giữacác nhóm vẫn có sự kình địch. Thứ nhất là một số nhóm chiếm lược có thể cóý đồ lấn chiếm các nhóm khách hàng của nhà. Ví dụ, những nhà sản xuấtthiết bị nhà bếp chủ yếu có chiến lược khác nhau đều chạy theo những ngườixây dựng nhà ở kiều chung cư. Thứ hai là các khách hàng có thể không thấycó sự khác biệt gì nhiều giữa các mặt hàng chào bán. Thứ ba là mỗi nhómđều có thể muốn mở rộng phạm vi khúc thị trường của mình, nhất là nếu cáccông ty đều có quy mô và sức mạnh ngang nhau và rào cản cơ động giữa cácnhóm lại thấp.Trong thực tế, mỗi đối thủ cạnh tranh đều định hướng chuyên môn của mìnhđầy đủ hơn là chỉ theo hai tham biến. Một ví dụ về sự so sánh hai công tyđiện tử chủ yếu, Texas Instruments và Hewlett – Packard (Bảng 6-1). Rõ rànglà, mỗi công ty có một cơ cấu chiến lược khác nhau và vì thế cũng nhắm vàonhững nhóm khách hàng khác nhau. Công ty cần có những thông tin chi tiếthơn nữa về từng đối thủ cạnh tranh. Nó cần biết chất lượng sản phẩm, tínhnăng và danh mục sản phẩm, dịch vụ phục vụ khách hàng; chính sách giá cả;phạm vi phân phối, chiến lược về lực lượng bán hàng; quảng cáo và cácchương trình kích thích tiêu thụ; hoạt động nghiên cứu và phát triển, tình hìnhsản xuất, cung ứng, tài chính và các chiến lược khác của từng đối thủ cạnhtranh.Công ty phải không ngừng theo dõi chiến lược của các đối thủ cạnh tranh.Những đối thủ cạnh tranh giàu nguồn lực thường thay đổi chiến lược sau mộtthời gian. Hãy xem xét chiến lược trong ngành ôtô đã phát triển như thế nàotrong những năm qua.Ford là người chiến thắng đầu tiên, vì công ty này đã đảm bảo được chi phíthấp. Sau đó GM đã vượt lên trên Ford, bởi vì nó đã đáp ứng được mongmuốn mới của thị trường là đa dạng. Về sau các công ty Nhật đã chiếm vị trídẫn đầu, bởi vì họ cung ứng những kiểu xe tiết kiệm nhiên liệu. Tiếp đến cáccông ty Nhật lại tiến lên sản xuất những kiểu xe có độ tin cậy cao. Khi màcác nhà sản xuất ôtô Mỹ còn đang loay hoay với chất lượng thì các nhà sảnxuất ôtô Nhật đã chuyển sang chất lượng cảm giác, những điều nhìn thấy vàcảm thấy của chiếc xe và các bộ phận khác nhau của nó. Một kỹ sư trước kialàm việc cho hãng Ford đã phát biểu: Chính cần gạt tín hiệu rẽ mới không bịrụng… tốc độ nâng hạ kính xe… cảm giác về núm điều hòa nhiệt độ… đó làmột điểm để cạnh tranh giành khách hàng.Rõ ràng là các công ty phải nhạy bén với thay đổi mong muốn của kháchhàng và cách thức mà các đối thủ thay đổi chiến lược để đáp ứng nhữngmong muốn mới xuất hiện này. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
quy tắc kinh đoanh môi trường quản trị chuyên đề kinh doanh kiến thức quản trị chiến lược kinh doanh quản trị bán hàngTài liệu có liên quan:
-
37 trang 755 11 0
-
Chiến lược marketing trong kinh doanh
24 trang 405 1 0 -
Bài giảng Quản trị bán hàng (2020): Phần 1
69 trang 375 2 0 -
Bí quyết đặt tên cho doanh nghiệp của bạn
6 trang 356 0 0 -
3 trang 339 10 0
-
109 trang 301 0 0
-
Tổ chức thực hiện đánh giá kết quả và các nhân tố ảnh hưởng đến kế hoạch bán hàng
7 trang 267 0 0 -
Bài thuyết trình nhóm: Giới thiệu cơ cấu tổ chức công ty lữ hành Saigontourist
7 trang 238 0 0 -
Tiểu luận: Phân tích chiến lược của Công ty Sữa Vinamilk
25 trang 232 0 0 -
Tài liệu học tập Quản trị bán hàng: Phần 1
74 trang 226 0 0