Danh mục tài liệu

Tài liệu LUẬT SO SÁNH - BÀI 1

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 172.91 KB      Lượt xem: 34      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

LUẬT SO SÁNH BÀI 1: KHÁI NIỆM VỀ LUẬT SO SÁNH 1.1. TÊN MÔN HỌC 1.1.1. Luật so sánh Luật so sánh là một môn khoa học nghiên cứu và so sánh hệ thống pháp luật ở các nước nhằm tìm ra nét tương đồng và khác biệt điển hình giữa chúng trên cơ sở đó góp phần tạo thuận lợi cho sự tương đồng hệ thống pháp luật quốc gia so với pháp luật của các nước và quốc tế từ đó góp phần hội nhập quốc tế trong lĩnh vực pháp luật 1.1.2. Một số điều lưu ý-...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tài liệu LUẬT SO SÁNH - BÀI 1 LUẬT SO SÁNH BÀI 1: KHÁI NIỆM VỀ LUẬT SO SÁNH 1.1. TÊN MÔN HỌC 1.1.1. Luật so sánh Luật so sánh là một môn khoa học nghiên cứu và so sánh hệ thống pháp luật ở các nước nhằm tìm ra nét tương đồng và khác biệt điển hình giữa chúng trên cơ sở đó góp phần tạo thuận lợi cho sự tương đồng hệ thống pháp luật quốc gia so với pháp luật của các nước và quốc tế từ đó góp phần hội nhập quốc tế trong lĩnh vực pháp luật 1.1.2. Một số điều lưu ý- Tên gọi của môn học là Luật so sánh hay luật đối chiếu - Luật so sánh không phải là một ngành luật thực định vì nò không chứa các quy định của pháp luật như pháp luật thực định (không quy định vấn đề gì, không có đối tượng điều chỉnh) mà Luật so sánh đi nghiên cứu những cái quy định để tìm ra những tri thức khoa học - Mục đích của Luật so sánh là tìm ra những nết tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật trên thế giới và giải tại sao có sự tương đồng và khác biệt đó hay nói cách khác là tìm ra nguyên nhân của chúng từ đó đưa ra các giải pháp pháp lý tối ưu hay chỉ ra hạt nhân pháp lý tối ưu (giải pháp lý quốc gia nào là hợp lý nhất) và cuối cùng là phân nhóm luật của nước nào giống nước nào thì ta phân thành một nhóm và khác nhau ta phân thành một nhóm(ví dụ: nhóm châu âu lục địa, nhóm anh mỹ, nhóm XHCN) 1.1.3. Một số vấn đề lưu ý về việc đánh gia sự tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật trên thế giới - Tương đồng và khác biệt là hai mặt của 1 vấn đề nghĩa là chúng ta tiếp cận một vấn đề sẻ có hai khả năng xảy hoặc tương đồng hoặc khác biệt hoặc là cả hai đều chịu tác động của một nhóm yếu tố Ví dụ: Sự tương đồng trong hệ thống kinh tế => sự giống nhau giữa các hệ thống pháp luật tương ứng và ngược lại. - Dừ là tương đồng hay khác biệt thì các hiện tượng pháp lý đều chịu sự tác động của một nhóm yếu tố giống nhau cho dù theo những hướng trái ngược nhau. Tương đồng (1 nhóm yếu tố =>1 vấn đề) khác biệt Ví dụ: Sự tương đồng trong hệ thống kinh tế sẽ => sự giống nhau giữa các hệ thống pháp luật tương ứng và sự khác biệt trong hệ thống kinh tế sẽ góp phần tạo nên sự khác nhau trong lĩnh vực pháp luật. - Trong các tường hợp cụ thể thì quá trình so sánh luật có thể tập trung một khía cạnh nhất định hoặc chúng ta tập trung chỉ ra những nét tương đồng hoặc chỉ tập trung chỉ ra những nét khác biệt. Ví dụ khi so sánh hệ thống pháp luật Anh và Mỹ thì chúng ta nên so sánh những điểm khác biệt và tìm ra nguyên nhân của sự khác biệt nó thú vị hơn là so sánh những đặc điểm tương đồng vì hai hệ thống này coa nhiều đặc điểm giống nhau (có thể giải thích về sự giống nhau là do lịch sử, địa lý, kinh tế, thể chế chính trị) - Những yếu tố nào được coi là cớ liên quan và có vai trò quyết định đối với sự hình thành của hệ thống pháp luật tất nhiên phụ thuộc chủ yếu vào các giá trị hệ tư tưởng và các quan điểm khác của người so sánh. Ví dụ: Các nhà so sánh luật dưới góc độ quan điểm triết học Mác – Lê nin thì so sánh luật dựa trên cơ cấu kinh tế, các nhà so sánh luật dưới góc đọ tôn giáo thì so sánh luật dựa trên giáo lý, quan điểm tôn giáo 1.1.4. một số vấn đề cần lưu ý về việc đánh giá các hạt nhân giải pháp chung - Các giải pháp pháp lý được so sánh phải có cùng chức năng, nghĩa là cùng điều chỉnh các tình huống và các vấn đề tương tự. (cần phải xem xét các giải pháp pháp lý đó có cùng mục đích hay không bởi vì có hai khả năng xảy ra: + Có cùng một mục đích nhưng có nhiều giải pháp khác nhau. Ví dụ mục đích giảm dân số + Có nhiều giải pháp pháp lý khác nhau được sử dụng trong cùng một mục đích ). Ví dụ khi so sánh pháp luật về nạo thai ở hai nước nếu đạo luật này có mục tiêu hoàn toàn trái ngược nhau nhìn từ góc độ pháp lý, ta không thể kết luận quy định nào tốt hơn: ở nước này thì mong muốn giảm sự bùng nổ dân số, ở nước khác lại muốn tăng tỷ lệ sinh. - Có những trường hợp giải pháp pháp lý đó có hiệu quả ở quốc gia này nhưng có khi không phát huy được ở các quốc gia khác. Ví dụ ở những nước có nền kinh tế khác hoặc khác về tôn giáo chính thống và các giá trị đạo đức. Luật về tăng tuổi kết hôn tối thiểu sẽ không đạt được mục tiêu làm giảm sự bùng nổ dân số nếu quan hệ trước hôn nhân và trẻ em ngoài giá thú về mặt xã hội vẫn đựpc dân chúng chấp nhận. - Tùy góc độ, giá trị và mục đích mà tiêu chí đánh giá tính hợp lý của giải pháp pháp lý là khác nhau dẫn đến => phụ thuộc vào ý chí chủ quan của nhà nghiên cứu. Ví dụ: ở Việt Nam, việc đăng kí kết hôn được công nhận ở Ủy ban nhân dân xã, phường…. nhưng một số nước khác thì hôn nhân được chứng thực tại nhà thờ. Do vậy việc đánh giá giải pháp pháp lý nào tốt hơn là tùy thuộc vào cách nhìn nhận của các nhà làm luật. 1.2. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH LUẬT SO SÁNH 1.2.1. Trước năm 1869 (trước thế kỷ 19) - Luật so sánh xuất hiện từ rất sớm (từ những năm trước công nguyên). Cụ thể : + Người ta nghiên cứu hiến pháp các quốc gia khác nhau để lọc ra những thông tin phù hợp nhằm xây dựng hiến pháp cho quốc gia của mình. Nhà khoa học Aristore nghiên cứu 153 bản hiến pháp của Hi lạp và các quốc gia khác (384 – 322 TCN). + Nghiên cứu hiến pháp để soạn thảo luật của nhà nước Athen. + quá trình soạn thảo 12 bản của la mã. - Thời kì đế chế La Mã + Thời kì đế chế La Mã bành trướng lãnh thổ: thì luật La Mã chiếm ưu thế và chi phối dẫn đến quá trình xây dựng pháp luật của các quốc gia lấy luật La Mã làm tiền đề. Do đó, quá trình so sánh luật bị chững lại. + Thời kì đế chế La Mã sụp đổ: Vị trí độc tôn của luật La Mã không còn do nghi thức tôn giáo hay luật của giáo hội đã hình thành dẫn đến hoạt động so sánh luật được khôi phục giữa luật La Mã và luật giáo hội. - Đến thế kỷ 17 -18: Luật so sánh được quan tâm nhiều hơn. Trong thời kì này người ta tiến hành so sánh luật quốc gia, luật nước ngoài và luật quốc tế. + Ở Anh: Người ta tiến hành so sánh luật giáo hội và luật Commonlaw (thông luật, luật chung). + Ở Pháp: So sánh luật tập quán của pháp với luật của Dức. Đặc biệt, là cuốn sách Tinh thần pháp luật của Monteckiơ dẫn đến là kết quả của quá trình so sánh ...