
Tài liệu tham khảo: Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
Thông tin tài liệu:
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tài liệu tham khảo: Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ Bài ca ngất ngưởng” được Nguyễn Công Trứ sáng tác sau 1848 là năm ông cáoquan về hưu. Bài thơ có giá trị tổng kết cuộc đời của Nguyễn Công Trứ, cả trí tuệ, tàinăng, cả cốt cách, cá tính và triết lí. Khúc ca trác tuyệt viết bằng thể Hát nói này là tàihoa và khí phách của “Ông Hi Văn”. “Vũ trụ nội mạc phi phận sự Ông Hi Văn tài bộ đã vào *****g Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng Lúc bình Tây, cờ đại tướng, Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên. Đô môn giải tổ chi niên. Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng. Kìa núi nọ phau phau mây trắng. Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi. Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì, Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng. Được mất dương dương người tái thượng, Khen chê phơi phới ngọn đông phong Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng. Không Phật, không tiên, không vướng tục Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú. Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung Trong triều ai ngất ngưởng như ông!” Khác với những bài hát nói khác, Nguyễn Công Trứ không mở đầu bằng haicâu chữ Hán mà bằng một câu Hán: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” và một câu Việt:“Ông Hi Văn tài bộ đã vào *****g”. Câu thơ chữ Hán có nghĩa là trong vũ trụ nàykhông có việc gì là không phải phận sự của ta. Đây là quan niệm thiêng liêng của nhàNho mà Nguyễn Công Trứ đã nhận thức sâu sắc và hạnh động nhất quán từ trẻ chođến già. Vì nhiễm quan điểm chính thống đó mà “Ông Hi Văn tài bộ đã vào *****g”.Câu thơ hay tuyệt! Nội lực phải dữ dội lắm mới có cái điệu tự hào như vậy. Tưởngchừng như Nguyễn Công Trứ cười một “ông Hi Văn” nào đó, không ngờ “ông HiVăn” chính lại là Nguyễn Công Trứ! Con người suốt đời say mê công danh nhưng lạicoi cái vòng công danh ấy là một cái “*****g”. Tại sao lại có thái độ khinh bạc ấy?Cũng dễ hiểu, Nguyễn Công Trứ là người có tài đã đem hết tài năng, trí tuệ giúp đời,cứu nước, cứu dân. Nhưng xã hội phong kiến mà ông cúc cung tận tụy lại quá bé nhỏ,thảm hại, ông Hi Văn luôn luôn cảm thấy bị ràng buộc, mất tự do, khác chi một conchim trong *****g! Thành ra những hành động chọc trời khuấy nước, tài thao lược của vị đại tướngđể trả “nợ tang bồng” cũng chẳng qua là hành vi bay nhảy của con chim trong *****g. “Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng Lúc bình Tây, cờ đại tướng, Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”. Kể như thế cũng đã oanh liệt! Văn võ song toàn ở đỉnh cao. Ấy là tác giả chưakể đến những công trạng khác mà ông đã sáng tạo và đóng góp cho dân cho nước.Nhưng như thế thì Nguyễn Công Trứ có gì khác với giới quan trường vào luồn ra cúibấy giờ? Đây, “ông Hi Văn” đây rồi! “Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng” “Ngất ngưởng” ngay trong những hoạt động chính thống! “Ngất ngưởng” ngaytrên đỉnh cao danh vọng! Thật là hiếm thấy. Đấy không phải là bộ dạng, hành vi bênngoài mà ngất ngưởng đã trở thành bản chất của Nguyễn Công Trứ. Là thái độ sống,cũng là cốt cách, là cá tính của “ông Hi Văn”. Làm quan cho một triều đại suy tàn củachế độ pk, giữa đám quan lại, mua bán tước, bên cạnh những “tiến sĩ giấy” oái oămthay lại cùng trong một “*****g”, nên Nguyễn Công Trứ “ngất ngưởng” cao ngạo làphải. Xét về mặt nhân cách thì thái độ “ngất ngưởng” là “công trạng” lớn nhất củaNguyễn Công Trứ. Thái độ “ngất ngưởng” xuyên suốt của cuộc đời. Nguyễn CôngTrứ, nhưng xét đến cùng thì “ngất ngưởng” giữa triều, “ngất ngưởng” trên đỉnh caodanh vọng là thái độ đáng kính nhất của “ông Hi Văn”. Ngông đã trở thành cốt tủy của Nguyễn Công Trứ. Trong tiểu triều “ngấtngưởng”, cáo quan về “ngất ngưởng”: “Đô môn giải tổ chi niên, Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng Kìa núi nọ phau phau mây trắng Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi. Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì, Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng…” Năm cởi áo mũ, cáo quan về hưu, không thèm cưỡi ngựa mà cưỡi bò vàng cóđeo lục lạc, “ông Hi Văn” thật là “ngất ngưởng”. Chưa hết, ông còn cột mo cau sauđuôi bò, nói với thiên hạ là để che miệng thế gian. Rồi bỗng xuất hiện dãy núi quenthuộc của quê nhà: “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”. Núi Đại Nại trên quê hươngcủa thi nhân đẹp một cách hư ảo. Người anh hùng chọc trời khuấy nước nay trở về lân la nơi cõi Phật. “Tay kiếmcung” ấy chỉ có làm đổ đình đổ chùa chứ sao “mà nên dạng từ bi”! “Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì” Vào chùa mà dắt theo cả ả đào thì chỉ có Nguyễn Công Trứ, hay nói đúng hơnchỉ có Nguyễn Công Trứ là thành thật. Sự thành thật đã làm cho câu thơ trở nên xônxao, có lẽ còn ở tài hoa nữa. Từ “đủng đỉnh” hay quá, đây là nhịp đi của các nàng ảđào vào chùa, cái nhịp “đủng đỉnh” của tiếng chuông mõ tịch diệt, chứ không phải lànhịp “tùng”, “cắc” dưới “xóm”. Nhưng không phải “đủng đỉnh” chốc lát trước sânchùa mà ả đào thành ni cô. Thì cũng như Nguyễn Công Trứ vào cửa từ bi mà đâu códiệt được lòng ham muốn. “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng” Trong một xã hội mà cá nhân bị thủ tiêu, cá tính bị vo tròn, Nguyễn Công Trứlại lồ lộ ra một cá nhân, hồn nhiên một cá tính. Với tinh thần nhân văn “ngất ngưởng”,nhà thơ Nguyễn Công Trứ đã đi trước thời đại hàng thế kỉ! Theo dõi bài ca từ đầu, ta thấy đã diễn ra ba giai điệu “ngất ngưởng”. “Gồmthao lược đã nên ngất ngưởng” là “ông Hi Văn” “ngất ngưởng” ở trong “*****g”.Đây là giai điệu kỳ tuyệt, thể hiện khí phách của Nguyễn Công Trứ. Nói một cáchkhác đây là chiến thắng oanh liệt của sự tự diệt (khi lên đỉnh cao danh vọng người takhông còn là mình nữa). “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng” là giai điệu Nguyễn ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Nguyễn Công Trứ ngữ văn phổ thông văn mẫu lớp 10 tài liệu lớp 10 ôn thi văn lớp 10 bài giảng văn lớp 10Tài liệu có liên quan:
-
Hãy tưởng tượng và trò chuyện với người lính lái xe trong tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính
3 trang 97 0 0 -
Bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ qua một số tác phẩm văn học trung đại đã học
6 trang 61 0 0 -
Văn mẫu lớp 10: Phân tích truyện Tam đại con gà
9 trang 48 0 0 -
Giáo án Ngữ văn 11 tuần 4: Bài ca ngất ngưởng
7 trang 45 0 0 -
Kiến thức cơ bản bài Mây và sóng - Ta-go
6 trang 41 0 0 -
Văn mẫu lớp 10: Nghị luận về lòng yêu thương con người
7 trang 41 0 0 -
Văn mẫu lớp 10: Phân tích bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
27 trang 36 0 0 -
Cảm nhận về đoạn trích Nổi Thương Mình (trích Truyện Kiều - Nguyễn Du)
4 trang 35 0 0 -
Tìm hiểu Một thời đại trong thi ca
7 trang 35 0 0 -
Kết Thúc Có Hậu Truyện Tấm Cám...
4 trang 35 0 0 -
Tư tưởng của Nguyễn Công Trứ về nhân sinh
12 trang 34 0 0 -
Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
10 trang 34 0 0 -
Những danh nhân Việt Nam tiêu biểu: Phần 2
99 trang 33 0 0 -
Văn mẫu lớp 10: Phân tích Hình tượng Rama trong Ramayana
7 trang 32 0 0 -
Phân tích tâm sự thầm kín của Nguyễn Duy qua bài thơ Ánh trăng
8 trang 32 0 0 -
Bản sắc văn hóa Tây Nguyên qua sử thi Đam San
5 trang 32 0 0 -
Giáo trình Văn học Việt Nam: Giai đoạn cuối TK XVIII - Nửa đầu TK XIX: Phần 2 - Nguyễn Lộc
154 trang 30 0 0 -
Kiến thức cơ bản bài Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten
6 trang 30 0 0 -
GIÁO ÁN NGỮ VĂN LỚP 10 TOÀN TẬP - Phần 2
86 trang 28 0 0 -
Văn mẫu lớp 10: Cảm nhận về vẻ đẹp người anh hùng thời Trần trong bài thơ Tỏ lòng
9 trang 27 0 0