Danh mục tài liệu

Tìm hiểu giá trị nghệ thuật của gốm việt nam

Số trang: 19      Loại file: pdf      Dung lượng: 196.37 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Việt Nam, một trong những quốc gia có nghề gốm xuất hiện khá sớm, theo các tài liệu cổ từ khoảng một vạn năm trước đây. Nghề gốm ở Việt Nam đã có từ thời tiền sử, thời kỳ đồ đồng... nhưng phát triển rực rỡ nhất ở thời Lý Trần. Là một trong những nơi có kỹ nghệ gốm phát triển sớm ở Châu Á, với các sản phẩm gốm được tìm thấy trong nhiều di chỉ văn hoá như: Hoà Bình, Bắc Sơn, Hạ Long cho đến hậu kỳ đồ đá mới Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun... ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tìm hiểu giá trị nghệ thuật của gốm việt nam Giá trị nghệ thuật của gốm việt nam Việt Nam, một trong những quốc gia có nghề gốm xuất hiện khá sớm, theo các tài liệu cổ từ khoảng một vạn năm trước đây. Nghề gốm ở Việt Nam đã có từ thời tiền sử, thời kỳ đồ đồng... nhưng phát triển rực rỡ nhất ở thời Lý Trần. Là một trong những nơi có kỹ nghệ gốm phát triển sớm ở Châu Á, với các sản phẩm gốm được tìm thấy trong nhiều di chỉ văn hoá như: Hoà Bình, Bắc Sơn, Hạ Long cho đến hậu kỳ đồ đá mới Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun... Trải qua những giai đoạn phát triển của lịch sử, các sản phẩm gốm ngày càng đạt đến trình độ và kỹ thuật thẩm mỹ cao, được thể hiện ở ba loại: gốm men trắng ngà chạm đắp nổi, gốm hoa nâu, gốm men ngọc. Với những thành tựu như vậy, người Việt Nam có thể tự hào rằng gốm Việt Nam không thua gì gốm Trung Quốc về giá trị niên đại và giá trị nghệ thuật. Gốm men ngọc Việt Nam được so sánh với gốm Long Tuyền thời Tống ở Trung Quốc. Đặc điểm của một số loại gốm chính Sơ khai của nghệ thuật gốm đất nung Nhiều cuộc khai quật trong vòng hai mươi năm trở lại đây cho thấy bộ mặt gốm đất nung cách đây 5.000 năm đến đầu công nguyên thật phong phú. Với một số loại điển hình gồm: Gốm Phùng Nguyên (và gốm nhiều di chỉ cùng loại), cách đây 5.000 đến 4.000 năm, tổ tiên chúng ta đã biết sử dụng bàn xoay thành thục, đã biết trang trí lên gốm bằng những nét khắc tinh xảo, chủ yếu là hoa văn răng lược, khắc vạch, làn sóng, một số thiên về lối hình học (như gốm Gò Bông). Đã biết dùng màu đất trắng và màu đá son tô thắm lên bề mặt hình khắc của gốm trước khi nung; đã biết nung độ lửa già nhất của đất nung (như gốm Việt Tiến). Gốm Đồng Đậu (và gốm nhiều di chỉ cùng loại), cách đây khoảng 3.500 năm, hoa văn càng đa dạng: xoắn ốc, răng cưa, đường chấm song song, hình trám in, v.v... Đặc biệt, còn tìm thấy tượng bò tót, tượng chim, đầu gà... Gốm Gò Mun (và gốm nhiều di chỉ cùng loại), cách đây trên 3.000 năm, hoa văn hình học chiếm ưu thế. Nhiều hoa văn rõ ràng bắt chước hoa văn trên đồ đồng (kể cả một số hoa văn thuộc gốm Đồng Đậu). Gốm Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun không chỉ sớm phong phú về hoa văn, mà cũng phong phú về hình dáng. Nhiều hình dáng cho đến sau này vẫn còn được bảo tồn trong các lò gốm dân gian, như loại vò có miệng loe đứng, cổ cao, bụng nở (Đồng Đậu); loại vò cũng như nồi cỏ miệng loe rộng, cổ ngắn, bụng nở (Đồng Đậu); loại vò, nồi, có miệng loe xiên, cổ thắt (Đồng Xấu); bát, bình, cốc, ống nhổ chân thấp, chân cao (Phùng Nguyên), v.v... Ở miền Nam, gốm vùng châu thổ sông Cửu Long, quãng những thế kỷ đầu công nguyên, gốm Sa Huỳnh quãng thế kỷ thứ 5, cũng có nhiều hoa văn làn sóng, hình học, nhiều hình dáng rất gần gũi với gốm cổ vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Có hình dáng điển hình của gốm miền Nam như cái lu, cái chĩnh vẫn bảo tồn cho đến nay ở nhiều cơ sở sản xuất gốm trong Nam. Riêng hình cái chĩnh khá giống hình một số gốm Đông Sơn được phát hiện khá nhiều. Lúc đó, trong thời đại đồng thau phát triển rực rỡ, gốm đất nung trang trí ngày một công phu và có xu hướng bắt chước đồ đống, nhất là về mặt hoa văn. Điều đó khẳng định rằng nghệ thuật dân gian đã tồn tại và phát triển từ trong cuộc sống của quần chúng, thường được thể hiện rộng rãi từ những chất liệu thông thường nhất, từ những đồ dùng thông thường nhất (như đồ mây tre tiếp đến là đồ đất nung). Vì thế, nghệ thuật đất nung bắt chước nghệ thuật đồ đồng, không hề làm giảm mà ngược lại còn làm sáng tỏ thêm phong cách nghệ thuật đồ đồng cùng thời. Mối tương quan khá rõ nét giữa các nền nghệ thuật cổ xưa trên cùng một dải đất Việt Nam nói riêng, trên khu vực Đông Nam Á nói chung được phản ánh qua phong cách nghệ thuật đồ đồng cũng như phong cách nghệ thuật đồ đất nung cùng thời. Gốm hoa nâu trang trí hình chim,thời nhà Trần Gốm hoa nâu và tiền thân của nó Từ đầu công nguyên đến thế kỷ thứ 10, các nhà nghiên cứu trước đây mới chỉ nhắc đến gốm Hán bản địa, tức là những loại gốm đất nung hoặc sành xốp có men hoặc không men, tìm thấy trong các ngôi mộ người Hán chôn cất trên đất Việt Nam, phần lớn làm theo dạng gốm minh khí của Trung Quốc đương thời. Nhưng bên cạnh loại gốm này, còn vô số loại đất nung, sành nâu, sành trắng vẫn được tự sản tự tiêu trong các cộng đồng làng xã. Những loại gốm này vẫn tiếp tục những truyền thống của gốm cổ xưa, nhất là về mặt hình dáng. Di chỉ Cụ Trì (Thanh Miện - Hải Hưng) là một khu vừa mộ táng, vừa cư dân thuộc thời kỳ đó, đã tìm thấy chiếc vò, hũ men da lươn mỏng dính, dáng giống dáng gốm Đồng Đậu, và cũng còn rất quen thuộc cho đến ngày nay. Men da lươn căn bản làm bằng chất tro pha với đá son, đá thối và một số ít đất, vôi khác mà cha ông ta đã biết tận dụng nguyên liệu địa phương hầu như có sẵn khắp nơi. Gốm hoa nâu, thường thuộc loại sành xốp, men ngà bóng, hoa văn màu nâu. Hoa được khắc vạch trên xương đất ướt trước khi tô màu. Cũng có loại nền nâu, hoa văn trắn ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu có liên quan: