Danh mục tài liệu

Từ flavonoid đến vitamin P

Số trang: 3      Loại file: pdf      Dung lượng: 96.45 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Năm 1936, Szent Gyorgy, dược sĩ người Hungari tách từ ớt và quả chanh một chất cùng với vitamin C có tác dụng chữa được chứng chảy máu mao mạch, củng cố thành mạch, ông gọi là vitamin C2 hoặc vitamin P (P là chữ đầu của từ tiếng Pháp perméabilité - có nghĩa là tính thấm). Về sau người ta thấy trong giới thực vật có nhiều hợp chất thứ sinh có đặc tính tương tự vitamin P và đặt cho chúng một tên chung là flavonoid. Những công trình sau đó đã chứng minh rằng tác dụng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Từ flavonoid đến vitamin P Từ flavonoid đến vitamin P Năm 1936, Szent Gyorgy, dược sĩ người Hungari tách từ ớt vàquả chanh một chất cùng với vitamin C có tác dụng chữa được chứngchảy máu mao mạch, củng cố thành mạch, ông gọi là vitamin C2 hoặcvitamin P (P là chữ đầu của từ tiếng Pháp perméabilité - có nghĩa làtính thấm). Về sau người ta thấy trong giới thực vật có nhiều hợp chất thứ sinh cóđặc tính tương tự vitamin P và đặt cho chúng một tên chung là flavonoid.Những công trình sau đó đã chứng minh rằng tác dụng tăng cường sức bềnvững của thành mao mạch và do đó giảm sức thấm các hồng huyết cầu quathành mạch có quan hệ đến các nhóm OH phenol trong cấu trúc hóa học củacác flavonoid. Hiện nay người ta đã biết có gần 4.000 chất flavonoid có phổbiến trong thực vật và có ở phần lớn các bộ phận của các loài thực vật bậccao. Các chất này có tác dụng củng cố, nâng cao sức chống đỡ và hạ thấptính thẩm thấu các hồng huyết cầu qua thành mạch thông qua tác dụng lêncác cấu trúc màng tế bào của nó. Hay nói cách khác, vitamin P và flavonoidnói chung duy trì độ mềm dẻo của thành mạch, ứng dụng vào điều trị các rốiloạn chức năng tĩnh mạch, giãn hay suy yếu tĩnh mạch. Một số flavonoidcòn có ảnh hưởng trên hệ tim mạch, dùng trong dự phòng các bệnh này.Flavonoid còn giúp tích lũy vitamin C trong các mô tổ chức. Khi ăn uống thiếu vitamin P, cơ thể sẽ mệt mỏi, đau cơ và có nhữngđiểm xuất huyết dưới da. Flavonoid có nhiều trong lá chè xanh, hoa hòe,cam, quýt... Một số cây có chứa flavonoid đã được bào chế thành thuốc dùngtrong phòng và chữa bệnh. Hiện nay y học đang nói nhiều đến các gốc tự do, lên án nó là tácnhân hủy hoại tổ chức tế bào của cơ thể người. Gốc tự do là những phân tử,hoặc những mảng vỡ của phân tử có một điện tử lẻ đôi ở quỹ đạo vòng ngoài- do sự có mặt của điện tử cô đơn này, các gốc tự do có một thuộc tínhđáng ngại là có khả năng ôxy hóa rất mạnh. Vitamin P, các dẫn chấtflavonoid có tính khử mạnh có thể vô hiệu hóa các gốc tự do, khóa giữchúng lại bằng phản ứng ôxy hóa - khử, không cho các gốc tự do hoạt độngphá hoại các tổ chức. Với người bệnh xuất huyết thành mạch, vitamin P hayflavonoid nói chung có thể giúp bảo vệ được màng tế bào khỏi sự phá hoạibởi các gốc tự do, nhờ đó tăng được tính bền của thành mao mạch chốngđược sự xuất huyết. Nhiều công trình nghiên cứu gần đây về tác dụng củaflavonoid đối với gan cũng nhận thấy flavonoid có tác dụng chống lại cácđộc tố, các chất ôxy hóa hướng gan, trong đó có các gốc tự do. Nhu cầu về vitamin P của cơ thể chưa biết rõ. Thông thường trong ănuống nếu nhu cầu vitamin C được thỏa mãn thì nhu cầu vitamin P cũng đủ.Những người thường xuyên uống nước chè xanh, ăn cam, quýt, chanh... thìkhông lo thiếu vitamin P. Trên thị trường dược phẩm hiện nay có nhiều loại thuốc dẫn chấtflavonoid với những tên: vitamin P, rutin, troxerutin, rutosid, rutinoside...Hoặc vitamin P phối hợp với vitamin C thành các biệt dược kép với nhiềutên thương phẩm. Vitamin P (flavonoid và những dẫn chất) thường được chỉđịnh dùng trong chứng giãn mao mạch, hội chứng xuất huyết do nhiề unguyên nhân khác nhau, thấp khớp, viêm cầu thận, tăng huyết áp, quá liềucác thuốc chống đông máu và quá liều salicylat, và còn dùng trong điều trịvà dự phòng bệnh scorbut.