Danh mục tài liệu

Y học cổ truyền kinh điển - sách Linh Khu: THIÊN 3: TIỂU CHÂM GIẢI

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 121.28 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tham khảo tài liệu y học cổ truyền kinh điển - sách linh khu: thiên 3: tiểu châm giải, y tế - sức khoẻ, y dược phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Y học cổ truyền kinh điển - sách Linh Khu: THIÊN 3: TIỂU CHÂM GIẢI THIÊN 3: TIỂU CHÂM GIẢIKhi nói rằng: Dễ trình bày (dị trần ) có nghĩa là dễ nói [1]. Khó vào (nan nhập) cónghĩa là khó làm cho người khác sáng tỏ vấn đề [2]. Sự vụng về (thô thủ hình) làlo giữ về mặt hình thái của bệnh, có nghĩa là (người châm) chỉ lo giữ lấy phépchâm [3]. Sự khéo léo (thượng thủ thần) là phải lưu ý đến thần khí, có nghĩa là(người châm) phải chú ý đến huyết khí của người bệnh đang hữu dư hay bất túc đểmà bổ tả [4]. ‘ Thần’ tức là chỉ vào chính khí [5]. ‘Khách ‘ tức là chỉ vào tà khí [6].Tại cửa, ý nói tà khí tuần hành theo chính khí để ra vào (thân thể) [7]. Chưa thấyđược bệnh ở đâu ? có nghĩa là đặt vấn đề biết trước tà khí hay chính khí đang ởkinh nào đang bệnh [8]. Làm sao biết được nguyên gốc của bệnh? có nghĩa là(người châm) biết được trước kinh bị bệnh, và nên thủ huyệt chỗ nào [9]. Sự vidiệu của phép châm là ở chỗ nhanh hay chậm, đó là nói về vấn đề chậm hay nhanh[10]. Phương pháp vụng về (thô thủ quan) là chỉ lo giữ lấy phép châm, ý nói ngườichâm chỉ biết lo giữ lấy tứ chi mà không biết tới sự vãng lai của huyết khí, củachính khí hay tà khí [11]. Phương pháp khéo léo (thượng thủ cơ ) là lo giữ cơ (ýnói người châm biết giữ lấy khí) [12]. Động của cơ là người châm không được rờisự chú ý của mình đối với huyệt khí, ý nói người châm biết được sự hư thực củakhí để dụng châm nhanh hay chậm [13]. Cơ của huyệt khí vận hành một cáchthanh tịnh, cho nên phải chú ý 1 cách tinh vi, ý nói khi châm phải đợi cho đắc khí,ngầm ý nói rằng phải giữ lấy khí đừng để cho mất [14]. Không nên đón gặp khi nóđến, ý nói rằng khi khí thịnh thì không nên châm bổ [15]. Không nên rượt theo khinó ra đi, ý nói rằng khi khí hư thực thì không nên châm tả [16]. Không để sai sótdù là việc nhỏ bằng 1 sợi tóc, là có ý nói rằng khí dễ bị mất [17]. Đánh vào nó, nócũng không phát, ý nói (người châm) không biết vấn đề bổ hay tả, như vậy dù chocó làm cho huyết khí bị kiệt tận đi nữa thì bệnh khí cũng không ứng [18]. Biếtđược con đường tới lui của khí, có nghĩa là biết được sự nghịch thuận hay thịnhsuy của khí [19]. Biết được lúc nào thủ huyệt để châm, có nghĩa là biết cái “thời”thủ huyệt để đắc khí [20]. Sự tối tăm khi chỉ biết có cái thô, ý nói (người châm) bịmờ tối không biết sự vi diệu và kín đáo của khí [21]. Khéo léo thay cho người nàobiết rõ châm ý, có nghĩa là sự hiểu biết tường tận về châm ý [22].Khí tới (vãng) gọi là nghịch, ý nói khi khí bị hư thì mạch bị tiểu, chữ “tiểu” cónghĩa là nghịch[23]. Khí lui (lai) gọi là thuận, ý nói sự “bình” của hình và khí, chữ“bình” có nghĩa là thuận [24]. Biết được sự nghịch hay thuận thì sẽ thực hành việcchâm bằng con đường chính đạo, không còn thắc mắc gì nữa, ý nói (người châm)biết được nơi nào phải thủ huyệt nào [25]. Khí nghịch mà châm đoạt, ý nói làchâm tả [26]. Rượt theo để cứu thêm, ý nói là châm bổ [27].Khi nói rằng: Hư thì châm theo thực, ý nói mạch khí khẩu hư nên châm bổ [28].Mãn thì châm theo tiết (tả), ý nói mạch khí khẩu thịnh nên châm tả [29]. Tà khí bịtích lâu ngày thì phải trừ đi, ý nói phải châm xuất huyết ở mạch [30]. Tà khí thắngthì dùng phép châm hư, ý nói rằng nếu ở các kinh có thịnh khí, nên châm tả khí đi[31]. Châm rồi nhanh gọi là châm thực, ý nói lúc châm vào phải thật chậm, khi rútkim ra phải nhanh [32]. Nhanh rồi châm gọi là châm hư, ý nói lúc châm vào phảinhanh, rút kim ra thật chậm [33]. Khi nói ‘thực và hư’ là muốn nói đến một cái gìnhư có, như không có, là có ý nói rằng thực tức là hữu khí, còn hư tức là vô khí[34]. Xét sau và trước như còn như mất, ý nói về sự hư thực của khí và vấn đề bồtả trước và sau, xét khi nào khí đã trỡ lại như bình thường [35].Khi nói đến hư và thực là muốn nói đến một cái gì như có như không có, ý nóirằng khi châm bổ, ta sẽ phải cảm thấy như (nơi dưới mũi kim) đang có một cái gìtràn ngập, khi châm tả, ta sẽ thấy như đang bị đánh mất một cái gì một cách khôngrõ ràng [36]. Ôi ! Khí ở tại mạch : tà khí trúng thì ở trên, ý nói rằng khi tà khí trúngvào người thì ở trên, cho nên mới nói ‘tà khí tại thượng’ vậy [37]. Trọc khí (trúng)thì ở giữa, ý nói thủy cốc đều nhập vào Vị, tinh khí của nó lên trên ‘rót’ vào Phế,trọc khí của nó lưu chảy (giữ lại) nơi Trường Vị, nếu sống không thích ứng đượcvới sự ấm lạnh, và nếu ăn uống không điều độ thì bệnh sẽ xảy ra nơi Trường Vị, đólà ý nghĩa của câu ‘Trọc khí tại trung’ vậy [38]. Thanh khí trúng thì ở dưới, ý nóiđịa khí thanh và thấp, khi trúng vào người, ắt sẽ bắt đầu từ chân, đó là ý nghĩa củacâu ‘Thanh khí tại hạ’ vậy [39]. Châm vào hãm mạch thì tà khí bị xuất ra, có nghĩalà đuổi dương tà đang ở trên [40]. Châm trung mạch thì tà (trọc) khí xuất ra, đâynói là phải thủ huyệt Hợp của kinh Túc Dương minh [41]. Châm vào quá sâu thì,ngược lại, tà khí trầm xuống, ý nói rằng những bệnh cạn và nổi (bên ngoài) khôngnên châm quá sâu, bởi vì nếu châm sâu thì tà khí sẽ nhân theo để nhập vào cơ thể,đó là ý nghĩa của chữ ‘phản trầm’[42]. Bì nhục cân mạch, mỗi bộ phận đều có chỗở của nó, ý nói kinh hay lạc đều có chỗ làm chủ của nó [43]. Nếu châm vào các duhuyệt của ngũ tạng thì sẽ chết, là có ý nói rằng bệnh đang ở giữa, khí đang bất túc,nhưng chỉ dụng châm để đại tả đến tận các mạch khí của các kinh Âm [44]. Châmvào mạch của tam Dương, ý nói có một điều là tả đến tận khí của tam Dương, làmcho bệnh nhân bị suy tàn mà không thể phục hồi được [45]. Châm đoạt Âm thìchết, ý nói thủ huyệt ‘Xích chi ngũ lý’, đó là theo lối “ngũ vãng” vậy [46]. Châmđoạt Dương thì sẽ cuồng, ý nói cũng như ở trên (châm tam Dương)[47] . Quan cáisắc, sát đôi mắt, sẽ biết được bệnh đã hết hay còn trở lại, chuyên chú vào bệnh hìnhcủa bệnh nhân, theo dõi sự động tĩnh của của bệnh, ý nói (người) thầy thuốc giỏiphải biết rõ sự biểu hiện của ngũ sắc nơi mắt (người bệnh), lại phải biết sự điều hòacủa các dạng mạch Xích, Thốn, Tiểu, Đại, Hoãn, Cấp ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu có liên quan: