Danh mục tài liệu

Tiểu luận Triết học số 24 - Phân tích thực chất của cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện – ý nghĩa của vấn đề đó

Số trang: 19      Loại file: doc      Dung lượng: 150.50 KB      Lượt xem: 20      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tiểu luận triết học, triết học Mac Lenin, phân tích thực chất của cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện – ý nghĩa của vấn đề đó,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tiểu luận Triết học số 24 - Phân tích thực chất của cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện – ý nghĩa của vấn đề đó LỜI MỞ ĐẦU Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử  gần 3000  năm. Sự phát triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình  không đơn giản. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy   tâm, và gắn với nó là cuộc đấu tranh giữa các phương pháp nhận thức   hiện thực – phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình ­ tuy là cái  trục xuyên suốt lịch sử  triết học, làm nên cái “logic nội tại khách quan”  của sự phát triển, song lịch sử diễn biến của nó lại hết sức phức tạp.  Triết học Mác là một hệ  thống triết học khoa học và cách mạng,   chính vì vậy nó đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học  của giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trong thời đại mới. Triết học   Mác đã kế  thừa những tinh hoa, từ  đó đưa ra những nguyên lý khoa học   giúp con người nhân thức đúng và cải tạo thế giới.  Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự  biến đổi có ý nghĩa cách mạng   trong lịch sử  phát triển triết học của nhân loại. C.Mác và Ph.Ăngghen đã  kế thừa một cách có phê phán những thành tựu tư duy nhân loại, sáng tạo  nên chủ nghĩa duy vật triết học triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa duy  tâm và phép siêu hình. Để xây triết học duy vật biện chứng, Mác đã phải  cải cả chủ nghĩa duy vật cũ và cả  phép biện chứng duy tâm của Hêghen.   Đó là một cuộc cách mạng thật sự  trong học thuyết về xã hội, một trong   những yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng mà Mác và Ăngghen đã  thực hiện trong triết học. Vì vậy em nghiên cứu vấn đề   “Phân tích thực   chất của cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác ­ Ăngghen   thực hiện – ý nghĩa của vấn đề đó” cho bài tiểu luận của mình.  1 NỘI DUNG 1. Vấn đề cơ bản của triết học Triết học là hệ  thống những quan điểm chung về  thế  giới, nó xuất  hiện vào thời kỳ phát sinh và phát triển của xã hội chiếm hữu nô lệ ở thời   cổ  đại, vào khoảng từ  thế  kỷ  VIII đến thế  kỷ  VI trước công nguyên với  những thành tựu rực rỡ trong các nền triết học cổ  đại ở  Trung Quốc,  ấn   Độ và Hy Lạp. Trong gần 3000 năm tồn tại và phát triển, triết học có nhiều trường  phái và hệ  thống khác nhau. Các hệ  thống và trường phái đó phản ánh   trình độ phát triển về kinh tế – xã hội, chính trị và trình độ  phát triển của   các tri thức khoa học tự nhiên của các nước. Lẽ đương nhiên, sự phản ánh   đó tuỳ thuộc vào lập trường của các giai cấp nhất định. Khi nghiên cứu các hệ  thống, các trường phái triết học, chủ  nghĩa  Mác cho rằng, vấn đế  quan trọng hàng đầu, “vấn đề  cơ  bản lớn” hay   “vấn đề  tối cao” của triết học là vấn đề  quan hệ  giữa tư  duy và tồn tại,  giữa tinh thần và thế  giới tự  nhiên. Vấn đề  cơ  bản của triết học có hai   mặt: Thứ nhất, giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau và  cái nào quyết định? Thứ  hai,  ý thức của chúng ta có thể  phản ánh trung thực thế  giới   khách quan không? Hay nói một cách khác, con người có khả  năng nhận   thức thế giới hay không? Vấn đề quan hệ giữa tồn tại và tư  duy hay giữa vật chất và ý thức  là vấn đề  cơ  bản trong tất cả  vấn đề  mà triết học tập trung giải quyết.   Bởi vì, một là, đó là vấn đề  triết học rộng nhất, chung nhất; hai là, nếu   2 không giải quyết được vấn đề  này thì không thể  tiếp tục giải quyết các   vấn đề khác, những vấn đề ít chung hơn; ba là, giải quyết vấn đề này như  thế  nào sẽ  quyết định tính chất của thế  giới quan của các nhà triết học.  Và thế  giới quan  ấy là cơ  sở  tạo ra phương hướng để  xem xét và giải   quyết tất cả  những vấn đề  còn lại. Các học thuyết triết học được chia  thành hai trào lưu cơ bản: duy vật hay duy tâm, điều đó tuỳ thuộc vào việc   giải quyết vấn đề cơ bản này. Các hệ thống triết học thừa nhận tồn tại, tự nhiên, vật chất là cái có   trước; ý thức, tinh thần, tư duy là cái có sau, đó là chủ nghĩa duy vật. Còn  các hệ thống triết học coi ý thức là cái có trước, tồn tại là cái có sau là trào  lưu duy tâm. Việc xem xét và giải quyết vấn đề  cơ  bản của triết học là  tiêu chuẩn khoa học duy nhất để  xác định các học thuyết triết học đã,  đang và sẽ tồn tại là thuộc trào lưu nào: duy tâm hay duy vật. Các trào lưu cơ bản trong triết học – chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa  duy tâm – luôn luôn đấu tranh với nhau. Cuộc đấu tranh giữa các trào lưu  triết học là biểu hiện về  mặt tư  tưởng của cuộc đấu tranh giai cấp và   phản ánh tồn tại xã hội của các giai cấp, các tầng lớp trong  xã hội. Thông  thường, chủ nghĩa duy vật là biểu hiện về mặt triết học của hệ tư tưởng   các giai cáp và các tầng lớp tiến bộ, các lực lượng xã hội quan tâm đến sự  phát triển xã hội. Chủ nghĩa duy tâm là biểu hiện về mặt triết học của các   giai cấp, các nhóm xã hội bảo thủ, các đảng phái chính trị  phản động,  không quan tâm đến sự  phát triển xã hội. Các nhà duy vật với tư  cách là  các nhà tư  tưởng của các lực lượng xã hội tiến bộ  thường lấy những   thành tựu, kết quả của khoa học tiến tiến mà thực tiễn làm cơ  sở cho thế  giới quan của mình. Còn các nhà duy tâm luôn luôn gắn với tôn giáo, củng   cố vị trí của tôn giáo bằng những luận cứ triết học duy tâm. 3 Sự xuất hiện các giai cấp đối kháng và chế độ người bóc lột người,   việc tách lao động trí óc khỏi lao động chân tay là những nguyên nhân xã  hội làm cho chủ  nghĩa duy tâm xuất hiện. Các đại biểu của các giai cấp  bóc lột, thống trị  độc quyền hoạt động trí óc luôn mong muốn tạo ra  ấn  tượng rằng, dường như  lao động chân tay, hoạt động sản xuất vật chất  của quần chúng lao động là cái thứ yếu, cái phụ thuộc của lao động trí óc.   Họ cho rằng lao động trí óc đóng vai trò chủ yếu trong đời sống xã hội. Sự  khẳng định này c ...

Tài liệu có liên quan: