
Bước đầu đánh giá hiệu quả của kháng sinh dự phòng cefuroxim trong phẫu thuật cột sống tại khoa ngoại - Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 0.00 B
Lượt xem: 94
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả của cefuroxim khi chỉ định dự phòng nhiễm khuẩn trong phẫu thuật cột sống. Nghiên cứu tiến hành 60 bệnh nhân được bốc thăm chia nhóm ngẫu nhiên, nhóm nghiên cứu có 30 bệnh nhân được điều trị dự phòng bằng kháng sinh cefuroxim từ lúc tiền mê và tiêm 2 lần trong vòng 24 giờ sau mổ, còn lại 30 bệnh nhân đối chứng tiêm kháng sinh điều trị thường quy tại khoa Ngoại bệnh viện Đại học Y Hà Nội, liều lượng tùy theo từng kháng sinh và thông thường kéo dài từ 5-7 ngày sau mổ
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bước đầu đánh giá hiệu quả của kháng sinh dự phòng cefuroxim trong phẫu thuật cột sống tại khoa ngoại - Bệnh viện Đại học Y Hà Nội Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA KHÁNG SINH DỰ PHÒNG CEFUROXIM TRONG PHẪU THUẬT CỘT SỐNG TẠI KHOA NGOẠI _ BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI Nguyễn Thị Thu Giang*, Kiều Đình Hùng*, Nguyễn Thị Hiền** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Nhiễm khuẩn vết mổ là loại nhiễm khuẩn chiếm tỷ lệ cao nhất trong các nhiễm khuẩn sau mổ. Ở các nước phát triển, kháng sinh dự phòng đã được sử dụng phổ biến trong các phẫu thuật sạch và sạch nhiễm Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của Cefuroxim khi chỉ định dự phòng nhiễm khuẩn trong phẫu thuật cột sống. Phương pháp: 60 bệnh nhân được bốc thăm chia nhóm ngẫu nhiên, nhóm nghiên cứu có 30 bệnh nhân được điều trị dự phòng bằng kháng sinh Cefuroxim từ lúc tiền mê và tiêm 2 lần trong vòng 24 giờ sau mổ, còn lại 30 bệnh nhân đối chứng tiêm kháng sinh điều trị thường quy tại khoa Ngoại bệnh viện Đại học Y Hà Nội, liều lượng tùy theo từng kháng sinh và thông thường kéo dài từ 5 – 7 ngày sau mổ. Kết quả: Các loại bệnh lý cột sống được phẫu thuật của hai nhóm nghiên cứu và đối chứng có sự tương đồng. Toàn bộ 100% bệnh nhân sau mổ 4 ngày không có dấu hiệu nhiễm khuẩn. Hiệu quả kinh tế: Mỗi bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu đã tiết kiệm được 1.881.022 VND so với nhóm đối chứng, với số lượng 30 bệnh nhân chúng tôi đã tiết kiệm 56.430.674 VND đồng tiền thuốc kháng sinh. Kết luận: Nhóm nghiên cứu đã tiết kiệm kinh phí và giảm số lần tiêm kháng sinh một cách có hiệu quả. Từ khóa: Kháng sinh dự phòng; Phẫu thuật cột sống ABSTRACT INITIAL ASSESSMENT OF THE EFFECT OF CEFUROXIME AS ANTIBIOTIC PROPHYLAXIS ON SPINAL SURGERY IN THE DEPARTMENT OF SURGERY AT THE HANOI MEDICAL UNIVERSITY HOSPITAL Nguyen Thi Thu Giang, Kieu Dinh Hung, Nguyen Thi Hien * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 91 ‐ 95 Background: Surgical site infections are the most common postoperative infections. In developed countries, use of antibiotics prophylaxis in clean surgery and clean contaminated surgery is recommend Methods: Sixty patients operated on spinal column were randomly devided in two groups: The first group of patients was treated by Cefuroxim at early stage of anaesthetize and the other group was treated by routine antibiotics after operation. Health index of two groups of operated patients has been well observed. Results: All participated patients were well been operated on. After 4 days, all patients of two groups have not been seen with any clinical signs of infections. Patients in the first group spent less cost (1,881,022 VND) as compared with patients in the second group, giving total amount of saved (56,430,674 VND) for 30 patients in the first group. Discussion and conclusion: It was significantly reduced a cost of antibiotic treatment and limitted number of antibiotic injection for the first group when compared to the second groups of patients. Từ khoá: Spinal surgery, antibiotic prophylaxis. * Trường Đại học Y Hà Nội, ** Trường Đại học Dược Hà Nội Tác giả liên lạc: DS. Nguyễn Thị Thu Giang, ĐT: 0942526996 Phẫu Thuật Cột Sống Email: nguyenthithugiang47@gmail.com 91 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 ĐẶT VẤN ĐỀ ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) là loại nhiễm khuẩn chiếm tỷ lệ cao nhất trong các nhiễm khuẩn sau mổ. Ở các nước phát triển, kháng sinh dự phòng (KSDP) đã được sử dụng phổ biến trong các phẫu thuật sạch và sạch nhiễm, nhưng ở Việt Nam do tâm lý lo ngại điều kiện vệ sinh bệnh viện, vệ sinh phòng mổ nên các phẫu thuật viên vẫn có thói quen dùng kháng sinh điều trị cho mọi loại phẫu thuật, điều này không những gây tốn kém, mất an toàn mà còn làm nguy cơ làm tăng sự kháng thuốc của vi khuẩn. Vi khuẩn là tác nhân chính gây ra nhiễm khuẩn vết mổ. Trong phẫu thuật sạch, Staphylococcus aureus từ môi trường ngoại sinh hoặc từ hệ vi khuẩn trên da bệnh nhân (BN) là nguyên nhân chính gây nhiễm khẩn vết mổ (NKVM)(1). Tại Việt Nam, các nghiên cứu cho thấy vi khuẩn phân lập được từ các trường hợp NKVM chủ yếu là vi khuẩn Gram âm, hay gặp nhất là Escherichia coli, Klebsiella pneumoniae và các vi khuẩn Gram dương khác có gặp nhưng với tỷ lệ thấp hơn như Staphylococcus aureus, Staphylococci không sinh coagulase(2,3). Tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội, một số công trình nghiên cứu về KSDP đối với phẫu thuật đã được tiến hành và cho kết quả tốt. Theo số liệu của khoa Ngoại trong năm 2012 và 2013, số lượng BN được mổ phiên về bệnh lý cột sống tại khoa là 105 và 109 trường hợp. Đây là một phẫu thuật sạch nên rất thích hợp cho việc sử dung KSDP. Nhưng hiện nay, trong phẫu thuật cột sống (PTCS), kháng sinh (KS) vẫn được sử ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bước đầu đánh giá hiệu quả của kháng sinh dự phòng cefuroxim trong phẫu thuật cột sống tại khoa ngoại - Bệnh viện Đại học Y Hà Nội Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA KHÁNG SINH DỰ PHÒNG CEFUROXIM TRONG PHẪU THUẬT CỘT SỐNG TẠI KHOA NGOẠI _ BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI Nguyễn Thị Thu Giang*, Kiều Đình Hùng*, Nguyễn Thị Hiền** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Nhiễm khuẩn vết mổ là loại nhiễm khuẩn chiếm tỷ lệ cao nhất trong các nhiễm khuẩn sau mổ. Ở các nước phát triển, kháng sinh dự phòng đã được sử dụng phổ biến trong các phẫu thuật sạch và sạch nhiễm Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của Cefuroxim khi chỉ định dự phòng nhiễm khuẩn trong phẫu thuật cột sống. Phương pháp: 60 bệnh nhân được bốc thăm chia nhóm ngẫu nhiên, nhóm nghiên cứu có 30 bệnh nhân được điều trị dự phòng bằng kháng sinh Cefuroxim từ lúc tiền mê và tiêm 2 lần trong vòng 24 giờ sau mổ, còn lại 30 bệnh nhân đối chứng tiêm kháng sinh điều trị thường quy tại khoa Ngoại bệnh viện Đại học Y Hà Nội, liều lượng tùy theo từng kháng sinh và thông thường kéo dài từ 5 – 7 ngày sau mổ. Kết quả: Các loại bệnh lý cột sống được phẫu thuật của hai nhóm nghiên cứu và đối chứng có sự tương đồng. Toàn bộ 100% bệnh nhân sau mổ 4 ngày không có dấu hiệu nhiễm khuẩn. Hiệu quả kinh tế: Mỗi bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu đã tiết kiệm được 1.881.022 VND so với nhóm đối chứng, với số lượng 30 bệnh nhân chúng tôi đã tiết kiệm 56.430.674 VND đồng tiền thuốc kháng sinh. Kết luận: Nhóm nghiên cứu đã tiết kiệm kinh phí và giảm số lần tiêm kháng sinh một cách có hiệu quả. Từ khóa: Kháng sinh dự phòng; Phẫu thuật cột sống ABSTRACT INITIAL ASSESSMENT OF THE EFFECT OF CEFUROXIME AS ANTIBIOTIC PROPHYLAXIS ON SPINAL SURGERY IN THE DEPARTMENT OF SURGERY AT THE HANOI MEDICAL UNIVERSITY HOSPITAL Nguyen Thi Thu Giang, Kieu Dinh Hung, Nguyen Thi Hien * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 91 ‐ 95 Background: Surgical site infections are the most common postoperative infections. In developed countries, use of antibiotics prophylaxis in clean surgery and clean contaminated surgery is recommend Methods: Sixty patients operated on spinal column were randomly devided in two groups: The first group of patients was treated by Cefuroxim at early stage of anaesthetize and the other group was treated by routine antibiotics after operation. Health index of two groups of operated patients has been well observed. Results: All participated patients were well been operated on. After 4 days, all patients of two groups have not been seen with any clinical signs of infections. Patients in the first group spent less cost (1,881,022 VND) as compared with patients in the second group, giving total amount of saved (56,430,674 VND) for 30 patients in the first group. Discussion and conclusion: It was significantly reduced a cost of antibiotic treatment and limitted number of antibiotic injection for the first group when compared to the second groups of patients. Từ khoá: Spinal surgery, antibiotic prophylaxis. * Trường Đại học Y Hà Nội, ** Trường Đại học Dược Hà Nội Tác giả liên lạc: DS. Nguyễn Thị Thu Giang, ĐT: 0942526996 Phẫu Thuật Cột Sống Email: nguyenthithugiang47@gmail.com 91 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 ĐẶT VẤN ĐỀ ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) là loại nhiễm khuẩn chiếm tỷ lệ cao nhất trong các nhiễm khuẩn sau mổ. Ở các nước phát triển, kháng sinh dự phòng (KSDP) đã được sử dụng phổ biến trong các phẫu thuật sạch và sạch nhiễm, nhưng ở Việt Nam do tâm lý lo ngại điều kiện vệ sinh bệnh viện, vệ sinh phòng mổ nên các phẫu thuật viên vẫn có thói quen dùng kháng sinh điều trị cho mọi loại phẫu thuật, điều này không những gây tốn kém, mất an toàn mà còn làm nguy cơ làm tăng sự kháng thuốc của vi khuẩn. Vi khuẩn là tác nhân chính gây ra nhiễm khuẩn vết mổ. Trong phẫu thuật sạch, Staphylococcus aureus từ môi trường ngoại sinh hoặc từ hệ vi khuẩn trên da bệnh nhân (BN) là nguyên nhân chính gây nhiễm khẩn vết mổ (NKVM)(1). Tại Việt Nam, các nghiên cứu cho thấy vi khuẩn phân lập được từ các trường hợp NKVM chủ yếu là vi khuẩn Gram âm, hay gặp nhất là Escherichia coli, Klebsiella pneumoniae và các vi khuẩn Gram dương khác có gặp nhưng với tỷ lệ thấp hơn như Staphylococcus aureus, Staphylococci không sinh coagulase(2,3). Tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội, một số công trình nghiên cứu về KSDP đối với phẫu thuật đã được tiến hành và cho kết quả tốt. Theo số liệu của khoa Ngoại trong năm 2012 và 2013, số lượng BN được mổ phiên về bệnh lý cột sống tại khoa là 105 và 109 trường hợp. Đây là một phẫu thuật sạch nên rất thích hợp cho việc sử dung KSDP. Nhưng hiện nay, trong phẫu thuật cột sống (PTCS), kháng sinh (KS) vẫn được sử ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí y học Nghiên cứu y học Kháng sinh dự phòng cefuroxim Phẫu thuật cột sống Thoái hóa cột sốngTài liệu có liên quan:
-
5 trang 334 0 0
-
Tổng quan hệ thống về lao thanh quản
6 trang 324 0 0 -
8 trang 288 1 0
-
Vai trò tiên lượng của C-reactive protein trong nhồi máu não
7 trang 285 0 0 -
Tổng quan hệ thống hiệu quả kiểm soát sâu răng của Silver Diamine Fluoride
6 trang 282 0 0 -
Khảo sát hài lòng người bệnh nội trú tại Bệnh viện Nhi Đồng 1
9 trang 254 0 0 -
13 trang 226 0 0
-
Tình trạng viêm lợi ở trẻ em học đường Việt Nam sau hai thập niên có chương trình nha học đường
4 trang 224 0 0 -
5 trang 222 0 0
-
8 trang 221 0 0
-
6 trang 218 0 0
-
9 trang 218 0 0
-
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ngộ độc Diquat tại Trung tâm Chống độc Bệnh viện Bạch Mai
5 trang 216 0 0 -
6 trang 212 0 0
-
12 trang 211 0 0
-
Thực trạng rối loạn giấc ngủ ở lái xe khách đường dài và tai nạn giao thông ở Việt Nam
7 trang 209 0 0 -
6 trang 209 0 0
-
7 trang 206 0 0
-
Phân tích đồng phân quang học của atenolol trong viên nén bằng phương pháp sắc ký lỏng (HPLC)
6 trang 204 0 0 -
8 trang 204 0 0