
Khái lược về văn học chữ Nôm ở Việt Nam - GS.TSKH. Nguyễn Quang Hồng
Thông tin tài liệu:
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Khái lược về văn học chữ Nôm ở Việt Nam - GS.TSKH. Nguyễn Quang HồngKHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC CHỮ NÔM Ở VIỆT NAM GS. TSKH. Nguyễn Quang Hồng 阮光紅教授 越南漢喃所 MỞ ĐẦU Ngay từ đầu Công nguyên cho đến suốt 1000 năm Bắc thuộc sau đó, các dân tộctrên đất nước Việt Nam đã sống trong quá trình cộng cư với nhau và cả với người Hántừ phương Bắc đến. Quá trình cộng cư này cùng với sự tiếp xúc với chữ Hán và vănhóa Hán, các dân tộc Việt Nam đã dần dần chủ động sử dụng chữ Hán trước hết làtrong hành chính và trong giáo dục, rồi cả trong sáng tác văn học, hình thành một nềnvăn học chữ Hán của chính dân tộc mình. Và từ khi thoát li khỏi sự đô hộ trực tiếp củaphong kiến phương Bắc, thì bên cạnh chữ Hán vẫn tiếp tục được coi trọng, người dânbản địa Việt Nam còn sáng tạo ra chữ viết cho bản ngữ của mình. Đó là các hệ thốngchữ viết ô vuông theo hình mẫu chữ Hán, được gọi là chữ Nôm: Người Kinh (tộcngười Việt) có chữ Nôm Việt, người Tày người Dao có chữ Nôm Tày, Nôm Dao v.v. Với chữ Nôm Việt, ở Việt Nam đã hình thành nên một nền văn chương chữ Nôm(bên cạnh văn chương chữ Hán). Và chính trong lĩnh vực sáng tạo văn học chữ Nômgắn liền với ngôn ngữ dân tộc đã tạo nên những tác phẩm có giá trị, chiếm những vịtrí cao nhất trong văn học cổ điểnViệt Nam. Xin trình bày đôi nét khái quát về nhữngchặng đường hình thành các thể loại cùng với những tác phẩm tiêu biểu của nền vănhọc chữ Nôm ở Việt Nam.A. THỜI KỲ SƠ KHAI Theo quốc sử Việt Nam (Đại Việt sử ký toàn thư 大 越 史 記 全 書 , 1479)thì từ thế kỷ XIII dưới thời nhà Trần, ở Đại Việt đã có nhiều người làm thơ phú bằngchữ Nôm, đặc biệt có Nguyễn Thuyên và Nguyễn Sĩ Cố, song tác phẩm của họ đều đãthất truyền từ lâu.1. Nguyễn Thuyên 阮 詮 (thế kỷ XIII) và Nguyễn Sĩ Cố 阮 士 故 (? - 1312) Nguyễn Thuyên không rõ năm sinh năm mất. Đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) năm1247, thời Trần Nhân Tông 陳仁宗(1279-1293). Thượng thư bộ Hình. Năm 1282, cócá sấu vào sông Phú Lương. Vâng mệnh triều đình, ông lập đàn tế và làm bài tế vănbằng chữ Nôm ném xuống sông, cá sấu liền bỏ đi. “Vua cho rằng việc làm này giốngnhư Hàn Dũ 翰愈, nên cho Nguyễn Thuyên đổi thành họ Hàn” (Đại Việt sử kí toànthư). Theo sử sách và gia phả họ Nguyễn ở Cao Bằng, thì Nguyễn Thuyên là ngườiđầu tiên dùng chữ Nôm để chép gia phả họ Nguyễn, viết quốc sử và làm thơ phú quốcâm. Tác phẩm có Phi sa tập (扉沙集), trong đó có thơ phú chữ Hán và cả chữ Nôm.Nhưng tất cả đều thất truyền. Theo nhận xét của người đương thời thì thơ chữ Nômcủa Hàn Thuyên mở đầu cho việc kết hợp thơ ca dân gian người Việt với thể thức thơ2006 台語文學學術研討會論文集 Tâi-gí Bûn-hk Hk-sýt Gián-thó-hōe Lūn-bûn-ch…pĐường (có biến đổi về số chữ và niêm luật) để có một thể thơ mà người đời sau gọi làthể thơ “Hàn luật”. Gần như cùng thời với Nguyễn Thuyên, có Nguyễn sĩ Cố (? - 1312). Ông lãnhchức Nội thị Học sĩ, tức thầy dạy hoàng tử mà sau này là vua Trần Nhân Tông. Ôngnổi tiếng đương thời về tài làm thơ Nôm, nhưng tác phẩm cũng đều thất truyền.Tương truyền thơ ông có ý vị trào lộng, gần giống với Đông Phương Sóc 東 方 朔đời Hán.2. Trần Khâm 陳欽(1258 - 1308) và Lý Đạo Tái 李道載 (1254 - 1334) Trần Khâm tức Trần Nhân Tông, vua thứ ba nhà Trần. Cùng vua cha thực hiệnđại đoàn kết hoàng tộc và dân chúng, đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông (1285,1287-88). Từ sau 1299 ông rời Kinh đô, làng mạc, lên ở hẳn núi Yên Tử, dựng chùatu Phật, lập ra dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử mà ông là tổ thứ nhất. Trần Nhân Tông viết nhiều tác phẩm thiền học và thơ Thiền bằng Hán văn. Tácphẩm viết bằng chữ Nôm còn lại đến nay có một bài phú và một bài ca. Đó là bài Cưtrần lạc đạo phú (居 陳 樂 道 賦) và bài Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca (得 趣林 泉 成 道 歌). Cả hai bài này đều do người đời sau cho vào tập Thiền tông bảnhạnh (禪 宗 本 行), khắc ván in lần đầu vào năm Cảnh Hưng 6 (1745). Đó là nhữngbài ca ngợi cảnh thiền và lòng thiền, trong đó con người an nhiên tự tại, sống giữa đờitrần mà cũng hòa vui trong đạo. Lý Đạo Tái tức là sư Huyền Quang, tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm, cùngthời với Trần Nhân Tông. Ông cũng là người viết nhiều tác phẩm về thiền học, và cảthơ chữ Hán. Trong tập Thiền tông bản hạnh nói trên có bài Vịnh Hoa Yên tự phú (詠華 煙 寺 賦) viết bằng chữ Nôm, tương truyền là do ông sáng tác. Gần đây trong giới nghiên cứu văn học và thiền học ở Việt Nam có người ngờrằng những tác phẩm rất có giá trị văn học trên đây, chưa thật chắc chắn là tác phẩmcủa Trần Nhân Tông và Huyền Quang. Tuy nhiên, trước khi vấn đề được làm sáng tỏ,thì chúng ta vẫn có thể tạm tin rằng đây là những tác phẩm thơ phú chữ Nôm sớmnhất còn lại đến nay.3. Hồ Quý Ly 胡季 釐 (1336 - 1407?) Hồ Quý Ly là vua đầu tiên triều nhà Hồ, một triều đại ngắn ngủi ở Việt Nam.Ông lên ngôi từ ngai vua nhà Trần năm 1400. Năm 1406, không chống cự nổi quânnhà Minh, cả ba cha con ông bị giặc bắt đưa về Trung Hoa, rồi sau mất ở đó. Hồ QuýLy là ông vua có tinh thần cải cách táo bạo, cả về quân sự, kinh tế và văn hóa tư tưởng.Nhưng ông vấp phải sự chống đối của phái bảo thủ, không thu phục được nhân tâm,nên dễ thất bại. Riêng về ngôn ngữ văn tự, Hồ Quý Ly là ông vua đầu tiên nêu chủ trươngdùng chữ Nôm tiếng Việt thay chữ Hán trong công văn, chiếu chỉ, và cho dịch kinhsách chữ Hán sang chữ Nôm. Chủ trương này về sau, vào cuối thế kỷ XVIII, vuaQuang Trung 光 中 (Nguyễn Huệ 阮 惠, 1753 - 1792) cũng lại đề ra, song đềuchưa kịp thực hiện. Bản thân Hồ Quý Ly cũng trước thuật bằng chữ Hán và sáng tácthơ văn chữ Nôm. Nhưng tất cả đều bị nhà Minh tiêu hủy. Sau này, khi thoát khỏi ách 1-2 〈KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC CHỮ NÔM Ở VIỆT NAM〉阮光紅教授thống trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi đã thu thập lại được 30 bài thơ chữ Nôm của ông,nhưng rồi đến lượt Nguyễn Trãi bị nạn, tất cả đều đã thất lạc.B. THƠ NÔM “HÀN LUẬT” 翰律 ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Khái lược về văn học Văn học chữ Nôm Chữ Nôm ở Việt Nam Diễn ca lịch sử Ngâm khúc truyện Nôm Thơ Nôm đường luậtTài liệu có liên quan:
-
Toàn tập về Ngô Thì Nhậm (Tập IV): Phần 2
466 trang 34 0 0 -
0 trang 34 0 0
-
0 trang 32 0 0
-
Lời thơ trào phúng – một biện pháp nghệ thuật xây dựng nên thơ Nôm Đường luật Hồ Xuân Hương
9 trang 32 0 0 -
Truyện thơ - Cung oán ngâm khúc: Phần 2
71 trang 31 0 0 -
Ngôn ngữ, chữ viết và văn học ở Việt Nam - Nguyễn Tùng
14 trang 29 0 0 -
Trích yếu Việt Nam văn học sử (Tập 1): Phần 2
73 trang 28 0 0 -
Thơ Nôm Hàn luật - Tổng tập văn học Nôm Việt Nam (Tập 1): Phần 2
452 trang 27 0 0 -
Thơ Nôm Hàn luật - Tổng tập văn học Nôm Việt Nam (Tập 1): Phần 1
635 trang 25 0 0 -
Truyện thơ - Cung oán ngâm khúc: Phần 1
67 trang 24 0 0 -
Con người nhàn dật, tự tại trong thơ Nôm Đường luật
7 trang 23 0 0 -
Thơ đề vịnh thiên nhiên trong Hồng Đức quốc âm thi tập
7 trang 23 0 0 -
Truyện thơ - Kiều (Vietnamese - English): Phần 2
330 trang 23 0 0 -
Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam
322 trang 22 0 0 -
Truyện thơ - Kiều (Vietnamese - English): Phần 1
280 trang 22 0 0 -
Tìm hiểu hiện tượng hai văn tự ở một giai đoạn văn chương Việt
12 trang 21 0 0 -
Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập: Các hình thức diễn đạt về sự ẩn dật
9 trang 21 0 0 -
Toàn tập về Ngô Thì Nhậm (Tập IV): Phần 1
423 trang 21 0 0 -
Xu hướng dân tộc hóa thể loại đường luật qua thơ vịnh cảnh trong 'Hồng Đức quốc âm thi tập'
8 trang 21 0 0 -
8 trang 16 0 0