Danh mục tài liệu

Phát triển đô thị thông minh bền vững hướng đến hiện thực hoá kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 459.44 KB      Lượt xem: 25      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Việt Nam đã đặt ra các quan điểm, tầm nhìn về đô thị thông minh như một công cụ giúp chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề phát triển bền vững kinh tế, xã hội, môi trường. Phát triển đô thị thông minh bền vững ở Việt Nam hướng tới tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, khai thác, phát huy các tiềm năng và lợi thế, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và các dịch vụ đô thị là chìa khóa để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, hội nhập quốc tế và góp phần hiện thực hóa kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phát triển đô thị thông minh bền vững hướng đến hiện thực hoá kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ THÔNG MINH BỀN VỮNG HƯỚNG ĐẾN HIỆN THỰC HOÁ KINH TẾ TUẦN HOÀN TẠI VIỆT NAM Đỗ Anh Đức1, Hà Diệu Linh2, Nguyễn Thu Hương3 1 Trường Đại học Kinh tế quốc dân 2 Trường Đại học Công đoàn 3 Sở Tài nguyên & Môi trường Hà Nội Tóm tắt Việt Nam đã đặt ra các quan điểm, tầm nhìn về đô thị thông minh như một công cụ giúp chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề phát triển bền vững kinh tế, xã hội, môi trường. Phát triển đô thị thông minh bền vững ở Việt Nam hướng tới tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, khai thác, phát huy các tiềm năng và lợi thế, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và các dịch vụ đô thị là chìa khóa để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, hội nhập quốc tế và góp phần hiện thực hóa kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam. Từ khóa: Bền vững, Đô thị thông minh; Kinh tế tuần hoàn 1. Đặt vấn đề Quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ và hình thành nên các đô thị, siêu đô thị trên toàn cầu là một trong những xu hướng lớn diễn ra rộng khắp trên thế giới. Báo cáo triển vọng đô thị hóa thế giới năm 2018 cho thấy 55% dân số thế giới sống ở các khu vực thành thị và tỷ lệ này dự kiến sẽ đạt 68% vào năm 2050 (UN, 2018). Theo sau quá trình phát triển này, các bài toán phát sinh đối với đô thị cũng đã và đang đặt ra nhiều yêu cầu đối với các dịch vụ, chẳng hạn như y tế, giáo dục, giao thông,... trong các đô thị. Ngoài ra, quy mô và dân số của các đô thị ngày càng gia tăng (Gavalas và các cộng sự, 2017) đã và đang đặt ra nhiều thách thức với khả năng của con người trong mục tiêu đảm bảo sự phát triển bền vững. Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc đưa ra các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) trong đó nhấn mạnh đến việc phát triển các mô hình sản xuất và tiêu dùng bền vững hơn - điều đó tạo ra một động lực mạnh mẽ để các quốc gia chuyển từ mô hình kinh tế tuyến tính sang mô hình kinh tế tuần hoàn. Trong mô hình kinh tế tuyến tính truyền thống, các nhà sản xuất chỉ quan tâm đến việc khai thác tài nguyên, sản xuất và vứt bỏ sau tiêu thụ. Điều này sẽ tạo ra một lượng phế thải khổng lồ. Kinh tế tuần hoàn với cốt lõi là kết nối điểm cuối với điểm đầu của hệ thống kinh | 155 tế, giúp các vật liệu được thu hồi trở lại thành đầu vào cho hệ thống kinh tế. Mô hình này chú trọng tới việc quản lý và tái tạo tài nguyên theo một vòng khép kín nhằm tránh tạo ra phế thải và nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất nhờ tiết kiệm tài nguyên, tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp, giảm thiểu chất thải ra môi trường. Ngoài ra, kinh tế tuần hoàn phí phát thải sẽ tạo thêm công ăn việc làm cho thị trường lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực công - tư, tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh mới có giá trị cao. Để hiện thực hóa nền kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam rất cần phải phát triển đô thị thông minh theo hướng bền vững. 2. Xu thế phát triển kinh tế tuần hoàn Trong bối cảnh toàn cầu đang nỗ lực phục hồi hệ sinh thái tự nhiên, giảm phát thải khí nhà kính cũng như khắc phục những sai lầm trong khai thác, sử dụng quá mức tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường,… đã tạo ra một động lực mạnh mẽ để các quốc gia chuyển từ mô hình kinh tế tuyến tính sang mô hình kinh tế tuần hoàn. Kinh tế tuần hoàn với cốt lõi là kết nối điểm cuối với điểm đầu của hệ thống kinh tế, giúp các vật liệu được thu hồi trở lại thành đầu vào cho hệ thống kinh tế. Mô hình này chú trọng tới việc quản lý và tái tạo tài nguyên theo một vòng khép kín nhằm tránh tạo ra phế thải và nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất nhờ tiết kiệm tài nguyên, tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp, giảm thiểu chất thải ra môi trường. Ngoài ra, kinh tế tuần hoàn phi phát thải sẽ tạo thêm công ăn việc làm cho thị trường lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực công - tư, tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh mới có giá trị cao. Khái niệm kinh tế tuần hoàn được sử dụng chính thức đầu tiên bởi Pearce và Turner (1990). Nó được dùng để chỉ mô hình kinh tế mới dựa trên nguyên lý cơ bản “mọi thứ đều là đầu vào đối với thứ khác”, hoàn toàn không giống với cách nhìn của nền kinh tế tuyến tính truyền thống. Ellen MacArthur Foundation mô tả nền kinh tế tuần hoàn là một hệ thống công nghiệp phục hồi hoặc tái tạo theo ý định và thiết kế. Nó chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo, loại bỏ việc sử dụng các hóa chất độc hại và chất thải gây suy giảm khả năng tái sử dụng thông qua thiết kế ưu việt của vật liệu, sản phẩm, hệ thống và trong phạm vi này, là các mô hình kinh doanh. Hay nói một cách đơn giản Kinh tế tuần hoàn là biến rác thải đầu ra của ngành này thành nguồn tài nguyên đầu vào của ngành khác hay tuần hoàn trong nội tại bản thân của một doanh nghiệp. Kinh tế tuần hoàn một phần góp phần gia tăng giá trị cho doanh nghiệp, giảm khai thác tài nguyên, giảm chi phí xử lý chất thải, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Khái niệm kinh tế tuần hoàn có liên quan đến một tập hợp các khái niệm có liên quan như sinh thái công nghiệp (Lifset và Graedel, 2001), hệ sinh thái công 156 | nghiệp (Jelinski và cộng sự, 1992) và cộng sinh công nghiệp (Chertow và Ehrenfeld, 2012), sản xuất sạch hơn (Stevenson và Evans, 2004) bao gồm các đánh giá về thông tư của hệ thống sản xuất các dòng nguyên liệu và sự phát triển để đạt được mục đích đó (Lieder và Rashid, 2016), hiệu quả sinh thái (Haas và cộng sự, 2015), khả năng phục hồi của các hệ thống sinh thái - xã hội (Crépin và cộng sự, 2012), khái niệm không phát thải (P ...

Tài liệu có liên quan:

Tài liệu mới: