
Thực trạng thực thi pháp luật bảo vệ môi trường tại các làng nghề ở Việt Nam
Thông tin tài liệu:
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thực trạng thực thi pháp luật bảo vệ môi trường tại các làng nghề ở Việt Nam Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 180‐185 Thực trạng thực thi pháp luật bảo vệ môi trường tại các làng nghề ở Việt Nam Lê Kim Nguyệt* Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thuỷ, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 12 tháng 6 năm 2012 Tóm tắt. Trong thời gian qua với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế của các làng nghề đã góp phần tích cực trong việc phát triển kinh tế - xã hội hiện nay ở Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh đó vấn đề ô nhiễm môi trường ở các làng nghề đã và đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống sức khỏe của người dân. Việc thực thi pháp luật bảo vệ môi trường tại các làng nghề ở Việt Nam còn rất nhiều bất cập, yếu kém cần được quan tâm kịp thời để đảm bảo đời sống, sản xuất, sinh hoạt và sức khỏe của người dân. * Môi trường trong lành là một yếu tố vô cùng quan trọng và thực sự cần thiết đối với mỗi con người, mỗi quốc gia. Nhân loại ngày nay càng ngày càng ý thức một cách sâu sắc hơn về mối quan hệ tương hỗ giữa các hoạt động nhằm phát triển kinh tế cộng đồng và môi trường thiên nhiên. Một quốc gia, một khu vực không thể phát triển cường thịnh nếu không quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường không coi bảo vệ môi trường là nền tảng cho sự phát triển bền vững của mình. Hiện nay Việt Nam cũng không tránh khỏi việc phải đối mặt với các vấn đề môi trường nan giải, trong đó vấn đề bảo vệ môi trường tại các làng nghề đang thu hút được nhiều sự quan tâm của Nhà nước và xã hội. Xuất phát từ thực tiễn, vấn đề bảo vệ môi trường tại các làng nghề ở Việt Nam hiện đang gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Một vấn đề rất quan trọng mà chúng tôi đề muốn đề cập tới trong bài viết này là tình hình thực thi pháp luật bảo vệ môi trường tại các làng nghề ở Việt Nam còn rất nhiều bất cập, yếu kém - Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc khó kiểm soát ô nhiễm môi trường tại các làng nghề ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Hiện nay, cả nước có 3.355 làng nghề và làng có nghề [1]: làng nghề Việt Nam chủ yếu tập trung ở nông thôn, trong quá trình đô thị hoá một số làng nghề nằm ở đô thị. Cùng với sự phát triển chung của đất nước, số làng nghề và làng có nghề ngày càng có xu hướng tăng về số lượng. Điều này góp phần vào sự phát triển kinh tế, giải quyết vấn đề lao động việc làm và tăng thu nhập cho người lao động ở nông thôn lúc nông nhàn. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy hầu hết các làng nghề sản xuất, kinh doanh chỉ quan tâm nhiều đến lợi nhuận kinh tế mà lờ đi yếu tố bảo vệ môi trường, giữ gìn môi trường trong lành cho cộng đồng. Điều này đang trở thành tình trạng phổ biến hiện nay. Tình hình ô nhiễm làng nghề tại các tỉnh thành đang rất ______ * ĐT: 84-982741204. E-mail: lekimnguyet@yahoo.com 180 L.K. Nguyệt / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 180‐185 nghiêm trọng, nhất là khu vực phía Bắc, Bắc Trung Bộ như: Hà Nội, Bắc Ninh, Quảng Nam, Đồng Nam… Vấn đề môi trường mà các làng nghề đang phải đối mặt không chỉ giới hạn ở trong phạm vi các làng nghề mà còn ảnh hưởng đến cộng đồng dân cư ở các vùng lân cận. Hiện nay “hầu hết các làng nghề ở Việt Nam đều bị ô nhiễm môi trường trừ các làng nghề không sản xuất hoặc dùng các nguyên liệu không gây ô nhiễm như thêu, may... Chất lượng môi trường tại hầu hết các làng nghề đều không đạt tiêu chuẩn khiến người lao động phải tiếp xúc với các nguy cơ gây hại cho sức khỏe, trong đó 95% là từ bụi; 85,9% từ nhiệt và 59,6% từ hóa chất. Kết quả khảo sát 52 làng nghề cho thấy: 46% làng nghề có môi trường bị ô nhiễm nặng ở cả 3 dạng; 27% ô nhiễm vừa và 27% ô nhiễm nhẹ” [2]. Tình trạng ô nhiễm môi trường ở các làng nghề xẩy ra ở các dạng phổ biến sau đây: - Ô nhiễm nước: ở Việt Nam, các làng nghề chưa có hệ thống xử lý nước thải công nghiệp, nước thải được đổ trực tiếp ra hệ thống kênh rạch chung hoặc ra sông. Nguyên nhân gây ô nhiễm nước chủ yếu là quá trình xử lý công nghiệp như: chế biến lương thực thực phẩm, mây tre, dệt, in, nung nấu kim loại, tẩy giấy và nhuộm… Thường thì nước thải ra bị nhiễm màu nặng và gây ra hiện tượng đổi màu đối với dòng sông nhận nước thải, có mùi rất khó chịu. Hơn nữa là sự vượt quá tiêu chuẩn cho phép đối với các hàm lượng BOD, COD, SS, và coliform, các kim loại nặng… ở cả nước mặt và nước ngầm, làm chết các sinh vật thủy sinh và chứa các mầm bệnh nguy hại cho con người. - Ô nhiễm không khí gây bụi, mùi, tiếng ồn và nóng do sử dụng than và củi chủ yếu trong sản xuất vật liệu xây dựng và sản xuất gốm sứ. - Ô nhiễm chất thải rắn do tái chế nguyên liệu (giấy, nhựa, kim loại…) hoặc do bã thải của các loại thực phẩm (sắn, dong), các loại rác thải thông thường: nhựa, túi nilon, giấy, hộp, vỏ lon, kim loại và các loại rác thải khác thường được đổ ra bất kỳ dòng nước hoặc khu đất trống nào. Làm cho nước ngầm và đất bị ô nhiễm các chất hóa học độc hại, ảnh hưởng tới sức khỏe 181 của con người. 100% mẫu nước thải ở các làng nghề được khảo sát có thông số vượt tiêu chuẩn cho phép. Môi trường không khí bị ô nhiễm có tính cục bộ tại nơi trực tiếp sản xuất, nhất là ô nhiễm bụi vượt tiêu chuẩn cho phép và ô nhiễm do sử dụng nhiên liệu than củi. Tỷ lệ người dân làng nghề mắc bệnh cao hơn các làng thuần nông, thường gặp ở các bệnh về đường hô hấp, đau mắt, bệnh đường ruột, bệnh ngoài da. Nhiều dòng sông chảy qua các làng nghề hiện nay đang bị ô nhiễm nặng; nhiều ruộng lúa, cây trồng bị giảm năng suất do ô nhiễm không khí từ làng nghề [3]. Hà Nội là một trong những thành phố có nhiều làng nghề nhất cả nước. Sau khi mở rộng (năm 2008), Hà Nội có tổng cộng 1.275 làng nghề, trong đó có 226 làng nghề được UBND thành phố công nhận theo các tiêu chí làng nghề, với nhiều loại hình sản xuất khác nhau, từ chế biến lương thực, thực phẩm; chăn nuôi, giết mổ; dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da đến sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác đá; tái chế phế liệu; thủ công mỹ nghệ... Trong số này, làng nghề thủ công mỹ nghệ chiếm 53% với 135 làng nghề, tiếp đó là làng n ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội Bài viết về pháp luật Thực thi pháp luật bảo vệ môi trường Làng nghề ở Việt Nam Môi trường làng nghề Việt Nam Ô nhiễm môi trường làng nghềTài liệu có liên quan:
-
Hoàn thiện quy định pháp luật về địa vị pháp lý của tổ chức công đoàn Việt Nam
7 trang 241 0 0 -
Đánh giá những tác động của việc thay đổi cách tính thuế đối với dịch vụ trung gian kết nối vận tải
4 trang 216 0 0 -
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân làm chủ trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
6 trang 202 0 0 -
So sánh các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ trong luật hình sự Cộng hòa Pháp và luật hình sự Việt Nam
4 trang 197 0 0 -
Hoàn thiện quy định của Luật sở hữu trí tuệ về bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm
6 trang 179 0 0 -
Một số quy định của luật công chứng
5 trang 179 0 0 -
Xử lý kỷ luật viên chức quản lý tại các cơ sở giáo dục đại học công lập
5 trang 174 0 0 -
Một số ý kiến về tổ chức chính quyền và pháp luật áp dụng tại đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt
6 trang 142 0 0 -
7 trang 119 0 0
-
Hoàn thiện pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp trong hoạt động tái cơ cấu tổ chức tín dụng
7 trang 104 0 0 -
6 trang 101 0 0
-
Thông tin trong giao kết hợp đồng lao động: Một góc nhìn từ Cộng hòa Liên bang Đức
6 trang 97 0 0 -
Tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý về kiểm soát quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước ở nước ta
9 trang 96 0 0 -
7 trang 94 0 0
-
Bảo đảm quyền của người bị tạm giam theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
5 trang 93 0 0 -
7 trang 88 0 0
-
Kiến nghị hoàn thiện các điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu
11 trang 83 0 0 -
7 trang 71 0 0
-
7 trang 68 0 0
-
Hoạt động quảng cáo trên youtube ở Việt Nam: Thực trạng và kiến nghị
6 trang 53 0 0