Một số nội dung cần sửa đổi, bổ sung của Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 330.39 KB
Lượt xem: 16
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Luật Chuyển giao công nghệ (CGCN) năm 2006, quy định thống nhất về hoạt động CGCN trên lãnh thổ Việt Nam, từ Việt Nam ra nước ngoài và từ nước ngoài vào Việt Nam. Sau mười năm thi hành, Luật CGCN năm 2006 dự kiến sẽ được sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới. Bài viết phân tích một số nội dung mà Luật CGCN năm 2006 đã điều chỉnh trong thời gian qua, cũng như kiến nghị hoàn thiện Luật CGCN.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một số nội dung cần sửa đổi, bổ sung của Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT MÖÅT SÖË NÖÅI DUNG CÊÌN SÛÃA ÀÖÍI, BÖÍ SUNG CUÃA LUÊÅT CHUYÏÍN GIAO CÖNG NGHÏå NÙM 2006 PHạm cHí Trung* Luật Chuyển giao công nghệ (CGCN) năm 2006, quy định thống nhất về hoạt động CGCN trên lãnh thổ Việt Nam, từ Việt Nam ra nước ngoài và từ nước ngoài vào Việt Nam. Sau mười năm thi hành, Luật CGCN năm 2006 dự kiến sẽ được sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới. Bài viết phân tích một số nội dung mà Luật CGCN năm 2006 đã điều chỉnh trong thời gian qua, cũng như kiến nghị hoàn thiện Luật CGCN. 1. các kết quả quan trọng đạt được trong nhiều công nghệ mới, hiện đại vào nước ta, thực hiện Luật chuyển giao công nghệ nhất là trong các lĩnh vực dầu khí, điện tử, năm 2006 viễn thông, ôtô, xe máy. Nhiều ngành nghề, Luật CGCN năm 2006 đã thể hiện được sản phẩm mới được tạo ra với công nghệ chính sách của Nhà nước là trao quyền tự hiện đại, chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, chủ cho các doanh nghiệp, không can thiệp góp phần tăng đáng kể năng lực sản xuất và sâu vào quyền tự quyết của tổ chức, cá nhân khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. khi mua bán công nghệ. Điều này thể hiện ở Điều này đã góp phần chuyển dịch cơ cấu việc Luật không quy định khống chế mức kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện phí tối đa thanh toán cho CGCN. đại hoá. Nhiều nguồn lực trong nước như Luật CGCN năm 2006 có hiệu lực đã lao động, đất đai, tài nguyên được khai thác tháo gỡ vướng mắc cho các tổ chức và cá và sử dụng tương đối hiệu quả. nhân, đó là việc áp dụng pháp luật. Khi Việt Đi liền với CGCN là quá trình tiếp nhận Nam hội nhập quốc tế thì việc hợp tác, ký kinh nghiệm quản lý tiên tiến trên thế giới kết hợp đồng mua bán nói chung và CGCN và đào tạo được đội ngũ lao động có trình nói riêng không những phải phù hợp với độ cao, có khả năng sử dụng được các công pháp luật Việt Nam mà còn phải phù hợp với nghệ hiện đại. Ngoài ra, CGCN còn góp pháp luật và các thông lệ quốc tế. phần giải quyết việc làm cho người lao Chủ trương CGCN qua các dự án đầu tư động, năng lực công nghệ trong nước được trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng đã du nhập nâng cao. * TS. Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Văn phòng Quốc hội. NGHIÏN CÛÁU28 LÊÅP PHAÁP Söë 14(318) T7/2016 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT Thông qua hoạt động CGCN, một số nghệ luôn có tính thống nhất và tạo thànhngành, lĩnh vực như công nghệ thông tin và một hệ thống nhất định. Tính hệ thống củatruyền thông, công nghệ sinh học, tự động công nghệ được thể hiện ở chỗ phải có mộthóa và vật liệu mới đã tiếp nhận và làm chủ loạt các giải pháp, quy trình, bí quyết kỹnhững công nghệ tiên tiến, đáp ứng yêu cầu thuật mới có thể tạo thành một sản phẩm cócủa công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa giá trị.đất nước. Hệ thống được hiểu là sự liên kết chặt Luật CGCN năm 2006 ra đời cũng đã chẽ của nhiều thành tố để đạt được kết quảcó những bước đột phá nhằm tạo nguồn vốn, nhất định. Không thể nhìn nhận công nghệcơ chế tài chính và động lực cho tổ chức, cá như những thành tố riêng rẽ, bởi công nghệnhân hoạt động CGCN. Quỹ Hỗ trợ đổi mới chỉ phát huy tác dụng của nó nếu có sự phốicông nghệ quốc gia đã hỗ trợ các tổ chức hợp và liên hệ chặt chẽ giữa các thành tốkhoa học và công nghệ (KH&CN), các khác nhau của công nghệ. Việc quy địnhdoanh nghiệp, nhà đầu tư trong hoạt động công nghệ chỉ là “giải pháp, quy trình, bíCGCN, đổi mới công nghệ, ứng dụng kỹ quyết kỹ thuật” mà không phải là một hệthuật tiên tiến và hiện đại. thống các giải pháp, bí quyết kỹ thuật để sản2. một số bất cập trong Luật chuyển giao xuất đã làm cho phạm vi điều chỉnh của Luậtcông nghệ năm 2006 không tập trung vào những vấn đề quan trọng. Đồng thời, do các “công nghệ” theo Bên cạnh các kết quả nêu trên, Luật quy định của Luật CGCN là quá nhỏ, dẫnCGCN năm 2006 đã bộc lộ một số hạn chế, đến các ưu đãi, khuyến khích đối với hoạtmột số mục tiêu đặt ra khi ban h ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Một số nội dung cần sửa đổi, bổ sung của Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT MÖÅT SÖË NÖÅI DUNG CÊÌN SÛÃA ÀÖÍI, BÖÍ SUNG CUÃA LUÊÅT CHUYÏÍN GIAO CÖNG NGHÏå NÙM 2006 PHạm cHí Trung* Luật Chuyển giao công nghệ (CGCN) năm 2006, quy định thống nhất về hoạt động CGCN trên lãnh thổ Việt Nam, từ Việt Nam ra nước ngoài và từ nước ngoài vào Việt Nam. Sau mười năm thi hành, Luật CGCN năm 2006 dự kiến sẽ được sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới. Bài viết phân tích một số nội dung mà Luật CGCN năm 2006 đã điều chỉnh trong thời gian qua, cũng như kiến nghị hoàn thiện Luật CGCN. 1. các kết quả quan trọng đạt được trong nhiều công nghệ mới, hiện đại vào nước ta, thực hiện Luật chuyển giao công nghệ nhất là trong các lĩnh vực dầu khí, điện tử, năm 2006 viễn thông, ôtô, xe máy. Nhiều ngành nghề, Luật CGCN năm 2006 đã thể hiện được sản phẩm mới được tạo ra với công nghệ chính sách của Nhà nước là trao quyền tự hiện đại, chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, chủ cho các doanh nghiệp, không can thiệp góp phần tăng đáng kể năng lực sản xuất và sâu vào quyền tự quyết của tổ chức, cá nhân khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. khi mua bán công nghệ. Điều này thể hiện ở Điều này đã góp phần chuyển dịch cơ cấu việc Luật không quy định khống chế mức kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện phí tối đa thanh toán cho CGCN. đại hoá. Nhiều nguồn lực trong nước như Luật CGCN năm 2006 có hiệu lực đã lao động, đất đai, tài nguyên được khai thác tháo gỡ vướng mắc cho các tổ chức và cá và sử dụng tương đối hiệu quả. nhân, đó là việc áp dụng pháp luật. Khi Việt Đi liền với CGCN là quá trình tiếp nhận Nam hội nhập quốc tế thì việc hợp tác, ký kinh nghiệm quản lý tiên tiến trên thế giới kết hợp đồng mua bán nói chung và CGCN và đào tạo được đội ngũ lao động có trình nói riêng không những phải phù hợp với độ cao, có khả năng sử dụng được các công pháp luật Việt Nam mà còn phải phù hợp với nghệ hiện đại. Ngoài ra, CGCN còn góp pháp luật và các thông lệ quốc tế. phần giải quyết việc làm cho người lao Chủ trương CGCN qua các dự án đầu tư động, năng lực công nghệ trong nước được trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng đã du nhập nâng cao. * TS. Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Văn phòng Quốc hội. NGHIÏN CÛÁU28 LÊÅP PHAÁP Söë 14(318) T7/2016 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT Thông qua hoạt động CGCN, một số nghệ luôn có tính thống nhất và tạo thànhngành, lĩnh vực như công nghệ thông tin và một hệ thống nhất định. Tính hệ thống củatruyền thông, công nghệ sinh học, tự động công nghệ được thể hiện ở chỗ phải có mộthóa và vật liệu mới đã tiếp nhận và làm chủ loạt các giải pháp, quy trình, bí quyết kỹnhững công nghệ tiên tiến, đáp ứng yêu cầu thuật mới có thể tạo thành một sản phẩm cócủa công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa giá trị.đất nước. Hệ thống được hiểu là sự liên kết chặt Luật CGCN năm 2006 ra đời cũng đã chẽ của nhiều thành tố để đạt được kết quảcó những bước đột phá nhằm tạo nguồn vốn, nhất định. Không thể nhìn nhận công nghệcơ chế tài chính và động lực cho tổ chức, cá như những thành tố riêng rẽ, bởi công nghệnhân hoạt động CGCN. Quỹ Hỗ trợ đổi mới chỉ phát huy tác dụng của nó nếu có sự phốicông nghệ quốc gia đã hỗ trợ các tổ chức hợp và liên hệ chặt chẽ giữa các thành tốkhoa học và công nghệ (KH&CN), các khác nhau của công nghệ. Việc quy địnhdoanh nghiệp, nhà đầu tư trong hoạt động công nghệ chỉ là “giải pháp, quy trình, bíCGCN, đổi mới công nghệ, ứng dụng kỹ quyết kỹ thuật” mà không phải là một hệthuật tiên tiến và hiện đại. thống các giải pháp, bí quyết kỹ thuật để sản2. một số bất cập trong Luật chuyển giao xuất đã làm cho phạm vi điều chỉnh của Luậtcông nghệ năm 2006 không tập trung vào những vấn đề quan trọng. Đồng thời, do các “công nghệ” theo Bên cạnh các kết quả nêu trên, Luật quy định của Luật CGCN là quá nhỏ, dẫnCGCN năm 2006 đã bộc lộ một số hạn chế, đến các ưu đãi, khuyến khích đối với hoạtmột số mục tiêu đặt ra khi ban h ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Nghiên cứu Lập pháp Bài viết về pháp luật Luật Chuyển giao công nghệ Đầu tưtrực tiếp nước ngoài Đổi mới công nghệTài liệu có liên quan:
-
Hoàn thiện quy định pháp luật về địa vị pháp lý của tổ chức công đoàn Việt Nam
7 trang 243 0 0 -
Một số vấn đề liên quan đến chủ thể là tổ chức không có tư cách pháp nhân
9 trang 219 0 0 -
Đánh giá những tác động của việc thay đổi cách tính thuế đối với dịch vụ trung gian kết nối vận tải
4 trang 217 0 0 -
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân làm chủ trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
6 trang 204 0 0 -
So sánh các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ trong luật hình sự Cộng hòa Pháp và luật hình sự Việt Nam
4 trang 200 0 0 -
Hoàn thiện quy định của Luật sở hữu trí tuệ về bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm
6 trang 179 0 0 -
Một số quy định của luật công chứng
5 trang 179 0 0 -
Xử lý kỷ luật viên chức quản lý tại các cơ sở giáo dục đại học công lập
5 trang 176 0 0 -
Hình thức của di chúc trong pháp luật dân sự Việt Nam qua các thời kỳ
7 trang 164 0 0 -
Xác lập tư cách pháp lý cho trí tuệ nhân tạo
6 trang 157 1 0