
Tăng cường liên kết giữa khu vực FDI và doanh nghiệp trong nước nhằm nâng cao hiệu quả dòng vốn FDI
Thông tin tài liệu:
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tăng cường liên kết giữa khu vực FDI và doanh nghiệp trong nước nhằm nâng cao hiệu quả dòng vốn FDI TĂNG CƢỜNG LIÊN KẾT GIỮA KHU VỰC FDI VÀ DOANH NGHIỆP TRONG NƢỚC NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ DÒNG VỐN FDI ThS. Phạm Thị Phương Thảo Trường Đại học Kinh tế Kĩ thuật Công nghiệp Tóm tắt 30 năm qua, kể cả giai đoạn khủng hoảng kinh tế, FDI luôn là khu vực phát triển năng động, có tác động thúc đẩy chuyển dịch các ngành kinh tế. Với tiềm lực mạnh hơn hẳn các doanh nghiệp trong nước về vốn, công nghệ, quản trị, kết nối thị trường, các doanh nghiệp FDI đã nhanh chóng vượt lên nắm giữ tỷ trọng ngày càng cao trong những lĩnh vực được coi là động lực tăng trưởng như công nghiệp chế tác và xuất khẩu. Tuy nhiên một trong những điểm yếu của Việt Nam trong quá trình thu hút FDI chính là liên kết giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước chưa được như kỳ vọng. Đây cũng chính là điểm nghẽn lớn nhất hạn chế sự tham gia của các doanh nghiêp nội địa vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu. Từ khóa: Liên kết, Doanh nghiệp FDI, Doanh nghiệp nội địa, Chuỗi giá trị... I. THỰC TRẠNG LIÊN KẾT GIỮA KHU VỰC FDI VÀ DOANH NGHIỆP NỘI ĐỊA VÀ KHẢ NĂNG THAM GIA VÀO CHUỖI LIÊN KẾT CỦA DOANH NGHIỆP NỘI ĐỊA Năm 2018 là kỷ niệm tròn 30 năm thu hút và quản lý đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nhìn lại những thành tựu đạt được, khu vực FDI đã mang nhiều dấu ấn tích cực, đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế, xã hội của nước ta. Theo thống kê của Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến nay, có 128 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với khoảng 26.000 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký trên 326 tỷ USD và tổng vốn thực hiện đạt trên 180 tỷ USD. Khu vực FDI ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, đóng góp khoảng 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và khoảng 20% GDP, trong đó 58% vốn FDI tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo và tạo ra 50% giá trị sản xuất công nghiệp, đóng góp 72,6% tổng kim ngạch xuất khẩu, tạo việc làm cho 3,6 triệu lao động trực tiếp và cho 5 - 6 triệu lao động gián tiếp. Tuy nhiên, trong chuỗi giá trị sản phẩm được tạo ra, các doanh nghiệp trong nước hầu như chưa tham gia nhiều, chủ yếu là làm gia công các mặt hàng nhỏ, tỷ lệ nội địa hóa cũng như hoạt động chuyển giao công nghệ còn ở mức thấp. Nguyên nhân của những hạn chế này là doanh nghiệp FDI không liên kết được với doanh nghiệp trong nước liên quan đến chuyển giao công nghệ. Điều tra năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhiều năm liền cho thấy tỷ lệ các doanh nghiệp tư nhân trong nước tham gia cung 97 cấp hàng hóa, dịch vụ trong chuỗi sản xuất của doanh nghiệp FDI còn hạn chế. Đến năm 2017, chỉ có khoảng 10% doanh nghiệp tư nhân trong nước là khách hàng cung cấp hàng hóa đầu vào của các doanh nghiệp FDI đang hoạt động tại Việt Nam. Nhìn từ phía các doanh nghiệp FDI, liên kết với các công ty trong nước cũng rất yếu. Theo thống kê thì chỉ 26,6% giá trị đầu vào của doanh nghiệp FDI được mua tại Việt Nam, nhưng đáng buồn là một tỷ trọng đáng kể trong đó lại là mua từ chính các doanh nghiệp FDI khác. Các doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghệ cao thường có xu hướng nhập hàng hóa đầu vào từ chính nước của doanh nghiệp và có xu hướng ít sử dụng nhà cung cấp ở nước sở tại. Việc khó kết nối giữa hai khu vực kinh tế này là do chính thực lực của doanh nghiệp tư nhân trong nước. Xuất phát điểm thấp, trình độ quản trị thấp và cũng do họ gặp nhiều lực cản hơn từ thể chế, chính sách trong nước. Chính vì lý do trên nên doanh nghiệp Việt Nam rất hạn chế trong tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Cho dù Việt Nam đang dẫn đầu về xuất khẩu hồ tiêu, cà phê, thuỷ sản; trở thành cứ điểm sản xuất điện thoại di động thông minh, máy tính bảng…, nhưng trong mỗi một chuỗi cung ứng, DN Việt chỉ tham gia ở những khâu tạo giá trị thấp. Chẳng hạn, trong chuỗi cung ứng dệt may, phần giá trị gia tăng cao nhất là khâu nghiên cứu, thiết kế, sản xuất nguyên phụ liệu, dệt vải, in vải, phân phối sản phẩm; phần giá trị gia tăng thấp là cắt may. Hiện tại, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam chủ yếu tham gia vào phần cắt và may, theo phương thức gia công đơn giản, thiếu khả năng cung cấp dịch vụ trọn gói. Trong khi, thời gian qua, doanh nghiệp Việt Nam đã chứng minh mình hoàn toàn có thể làm ra những sản phẩm chính xác, không thua kém bất cứ nhà sản xuất lớn nào trên thế giới nếu có sự hợp tác chặt chẽ, tham gia vào chuỗi giá trị và được chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp sản xuất FDI. Đầu tiên phải nói đến xe điện Pega, chiếc xe điện đầu tiên được sản xuất hoàn toàn tại Việt Nam và do người Việt Nam thực hiện. năm 2017, tỷ lệ nội địa hóa trong sản phẩm của Pega ước đạt 35%, con số này sẽ tăng gấp đôi lên 70% vào năm 2018 với sự tham gia rộng rãi của nhiều nhà sản xuất linh phụ kiện trong nước. Trong số đó, Công ty cổ phần Hợp tác Hưng Thịnh là DN thuộc danh mục các nhà cung cấp chính của Pega. Đây cũng là nhà sản xuất cơ khí trong nước đã sản xuất và cung cấp linh phụ kiện xe máy theo đơn đặt hàng của Honda, Yamaha và một số doanh nghiệp FDI khác trong thời gian qua, trong đó nhiều đơn hàng phục vụ cho xuất khẩu. Hưng Thịnh đã quyết định đầu tư 1,5 triệu USD để làm nhà máy vệ tinh cung ứng riêng linh kiện cho Pega. Hiện Công ty cung cấp cho Pega những sản phẩm cơ khí như khung, chân chống, các sản phẩm cơ khí khác với chất lượng tốt nhất theo tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó, Công ty trách nhiệm hữu hạn Cơ khí chính xác, dịch vụ và thương mại Việt Nam (VPMS), một công xưởng của người Việt với hệ thống máy móc hiện đại nhập khẩu từ Nhật chuyên sản xuất các loại khuôn ép nhựa, khuôn đúc nhôm, khuôn dập, gia công xử lý làm nhám bề mặt…, cũng là một nhà cung ứ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Phát triển kinh tế bền vững Doanh nghiệp FDI Doanh nghiệp nội địa Liên kết giữa khu vực FDI Dòng vốn FDITài liệu có liên quan:
-
8 trang 354 0 0
-
6 trang 225 0 0
-
6 trang 204 0 0
-
Vai trò nhà nước trong phát triển kinh tế Thủ đô theo hướng bền vững
10 trang 188 0 0 -
3 trang 188 0 0
-
Thúc đẩy tăng trưởng xanh để phát triển kinh tế bền vững
3 trang 187 0 0 -
Đổi mới tư duy về phát triển bền vững: Nhìn từ hai cách tiếp cận phát triển bền vững
5 trang 184 0 0 -
Cần đào tạo kiến thức kinh tế thị trường và phát triển bền vững cho cán bộ cấp cơ sở vùng Tây Bắc
7 trang 179 0 0 -
19 trang 174 0 0
-
Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam hiện nay: Rào cản và giải pháp tháo gỡ
11 trang 172 0 0 -
Phát triển thể chế liên kết vùng: Triển vọng cho phát triển bền vững ở vùng Tây Bắc
6 trang 155 0 0 -
Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến giá bán căn hộ chung cư trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
12 trang 146 0 0 -
15 trang 145 0 0
-
Một số đột phá trong đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
12 trang 133 0 0 -
1032 trang 130 0 0
-
Những giải pháp chủ yếu phát triển bền vững kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ
13 trang 123 0 0 -
107 trang 122 0 0
-
Tác động của các xu thế lớn tới sự phát triển bền vững của Việt Nam
8 trang 116 0 0 -
Đo lường phát triển kinh tế bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
10 trang 108 0 0 -
Đo lường mối quan hệ giữa marketing xanh, hình ảnh công ty và ý định mua hàng
12 trang 102 0 0